Docsity
Docsity

Prepare for your exams
Prepare for your exams

Study with the several resources on Docsity


Earn points to download
Earn points to download

Earn points by helping other students or get them with a premium plan


Guidelines and tips
Guidelines and tips

ban an hon nhan gia dinh, Lecture notes of Civil procedure

day la mot ban an hon nhan gia dinh

Typology: Lecture notes

2023/2024

Uploaded on 05/19/2024

hoang-yen-17
hoang-yen-17 🇻🇳

1 / 8

Toggle sidebar

Related documents


Partial preview of the text

Download ban an hon nhan gia dinh and more Lecture notes Civil procedure in PDF only on Docsity! BN. Phụ lục 02 NHÂN DANH NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH BN - Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có: Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Nguyễn Tuyết Mai. Các Thẩm phán: Ông Nguyễn Văn Tính Ông Hoàng Tuấn Anh - Thư ký phiên toà: Ông Chu Quang Duy, Thư ký Tòa án nhân dân tỉnh - Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh BN tham gia phiên tòa: Ông Nguyễn Huy Quang- Kiểm sát viên. Ngày 25 tháng 3 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh BN xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số: 20/2021/TLPT-HNGĐ ngày 12 tháng 11 năm 2021 về “Chia tài sản chung sau ly hôn”. Do bản án dân sự sơ thẩm số: 22/2021/HNGĐ-ST ngày 15 tháng 9 năm 2021 của Tòa án nhân dân thị xã TS bị kháng cáo. Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 19/2022/QĐPT-HNGĐ ngày 03 tháng 01 năm 2022 giữa các đương sự: - Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Liên H, sinh năm 1974 (xin xử vắng mặt) - Bị đơn: Anh Nguyễn Huy Đ, sinh năm 1973; Cùng HKTT: Khu đô thị Bắc TS, phường TH, thành phố TS, tỉnh BN. Đại diện theo ủy quyền: Chị Lê Thị Thu H1, sinh năm 1985 Địa chỉ: Số 10 VH, NTS, quận ĐĐ, thành phố HN. Người kháng cáo: Anh Nguyễn Huy Đ. NỘI DUNG VỤ ÁN: Theo bản án sơ thẩm và các tài liệu có trong hồ sơ thì vụ án có nội dung như sau: Nguyên đơn chị Nguyễn Thị Liên H trình bày: Tại quyết định số 14 ngày 06/11/2020 của Tòa án nhân dân thị xã TS đã giải quyết việc ly hôn giữa chị và anh Đ, trong quyết định ghi nhận sự thuận tình ly hôn và con chung, còn về tài sản chung vợ chồng tự thỏa thuận. TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH BN Bản án số: 16/2022/HNGĐ-PT Ngày: 25 tháng 3 năm 2022 V/v: Chia tài sản chung sau ly hôn CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập- Tự do - Hạnh phúc Tuy nhiên, sau ly hôn vợ chồng không thỏa thuận được về tài sản nên chị yêu cầu chia tài sản chung sau ly hôn gồm: quyền sử dụng đất (viết tắt là QSDĐ) thửa số 40, tờ bản đồ 35, diện tích 100m2, địa chỉ: khu đô thị Bắc TS, phường TH, thị xã TS, tỉnh BN đã được cấp giấy chứng nhận QSDĐ mang tên bà Nguyễn Thị Liên H, ông Nguyễn Huy Đ (viết tắt là thửa đất số 40) và tài sản gắn liền với đất. Nhà và đất trên hiện nay do anh Đ đang quản lý và sử dụng, giấy tờ nhà đất do chị đang quản lý, nhà đất trên chị và anh Đ không thế chấp, cầm đồ hay cho ai ở nhờ. Nguồn gốc của tài sản trên là của vợ chồng được hình thành trong thời kỳ hôn nhân, khi mua đất, xây nhà các con của chị còn nhỏ nên không có công sức, đóng góp vào khối tài sản chung vợ chồng. Chị đề nghị Tòa án chia tài sản theo qui định, hiện tại chị là người nuôi con chung, không có cấp dưỡng nuôi con, cả ba mẹ con không có chỗ ở ổn định, chị công tác tại TS, cháu T học trường THCS TS gần nhà đất trên, anh Đ công tác tại thành phố BN nên để phù hợp, thuận lợi với điều kiện công tác, hoàn cảnh thực tế của cả anh Đ và chị; đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp cho con chung chưa thành niên, để chị và cháu H, cháu T có chỗ ở, ổn định cuộc sống nên chị đề nghị Tòa án cho chị được nhận nhà đất, chị trích trả anh Đ phần giá trị tài sản theo giá trị mà Hội đồng định giá đã xác định. Chị không đồng ý với mức giá anh Đ đưa ra là 4.500.000.000đ, bên nào lấy nhà đất sẽ phải trích trả bên kia là 2.250.000.000đ. Bị đơn anh Nguyễn Huy Đ trình bày: Anh xác nhận anh và chị H có khối tài sản chung được tạo dựng trong thời kỳ hôn nhân gồm: ngôi nhà 03 tầng xây trên thửa số 40, tờ bản đồ 35, diện tích 100m2, địa chỉ: Khu đô thị Bắc TS, phường TH, thị xã TS, tỉnh BN đất đã được cấp giấy chứng nhận QSDĐ mang tên bà Nguyễn Thị Liên H, ông Nguyễn Huy Đ. Theo biên bản định giá ngày 29/7/2021 khối tài sản trên có trị giá 3.534.000.000đ là quá thấp anh không chấp nhận, anh Đ đề xuất mức giá là 4.500.000.000đ, anh có nguyện vọng lấy nhà đất và trích trả chị H ½ giá trị là 2.250.000.000đ, nếu chị H có nguyện vọng lấy nhà đất anh đề nghị chị H trả anh bằng ½ giá trị là 2.250.000.000đ, anh không chấp nhận giá mà Hội đồng định giá đã xác định. Người đại diện theo ủy quyền của anh Đ đề nghị Tòa án giao tài sản chung như trên cho anh Đ được quyền sử dụng và sở hữu bởi lẽ anh Đ hiện đang hành một số điều của Bộ luật tố tụng dân sự (viết tắt là BLTTDS) về định giá tài sản và khoản 5 Điều 104 BLTTDS thì: “Việc định giá lại tài sản được thực hiện trong trường hợp có căn cứ cho rằng kết quả định giá lần đầu.... không phù hợp với giá thị trường nơi có tài sản định giá tại thời điểm giải quyết vụ án dân sự”. Theo quy định này thì tại thời điểm định giá lần đầu giá trị QSDĐ được tính theo giá trị đất của thị xã TS nhưng đến thời điểm xét xử phúc thẩm thì thị xã TS đã lên thành phố TS nên giá trị đất thay đổi là có căn cứ. Do đó, yêu cầu định giá lại của anh Đ được chấp nhận. Thứ hai, theo Biên bản định giá ngày 02/3/2022 của Hội đồng định giá thành phố TS thì tổng giá trị tài sản là 3.510.400.000đ, trong đó: trị giá nhà là 1.310.400.000đ (giảm 23.600.000đ) và trị giá đất là 2.200.000.000đ (giữ nguyên). Cũng tại buổi định giá ngày 02/3/2022 và đến phiên tòa hôm nay, anh Đ định giá tổng giá trị tài sản là 5.000.000.000đ, cao hơn giá mà Hội đồng định giá đã định giá. Đồng thời đề nghị được sử dụng nhà đất và trả chị H 2.500.000.000đ. Nếu chị H có nguyện vọng lấy nhà đất anh đề nghị chị H trả anh bằng ½ giá trị là 2.500.000.000đ. Chị H không đồng ý với giá trị tài sản mà anh Đ đưa ra, chị đề nghị được sử dụng nhà đất và trích trả anh Đ ½ giá trị tài sản theo giá của Hội đồng định giá. Xét thấy, giá trị tài sản theo Hội đồng định giá (là 3.510.400.000đ) và theo anh Đ (là 5.000.000.000đ) có sự chênh lệch rất lớn (là 1.489.600.000đ). Do đó, việc giao nhà đất cho bên nào cũng phải bảo đảm quyền lợi tốt nhất cho bên còn lại khi tạo lập nơi ở mới. Xét nhu cầu sử dụng nhà và đất: Cả chị H và anh Đ đều có nhu cầu về chỗ ở như nhau nên nếu giao nhà đất cho bên nào thì bên còn lại cũng được nhận ½ giá trị tài sản và tạo lập nơi ở mới. Tuy nhiên, nếu tính giá trị tài sản theo giá của Hội đồng định giá và giao nhà cho chị H thì sẽ ảnh hưởng đến quyền lợi của anh Đ hoặc giao nhà cho anh Đ thì sẽ ảnh hưởng đến quyền lợi của chị H (do anh Đ đề nghị giá trích trả cao hơn giá trị của Hội đồng định giá). Còn nếu tính giá trị tài sản theo giá của anh Đ và giao nhà cho chị H thì sẽ ảnh hưởng đến quyền lợi của chị H (vì chị H không nhất trí với giá mà anh Đ đưa ra). Vì vậy, để giải quyết đúng nguyện vọng của đương sự nhưng vẫn đảm bảo quyền lợi cho bên nhận giá trị tài sản bằng tiền thì cần tính giá trị tài sản theo giá anh Đ đưa ra là 5.000.000.000đ và giao cho anh Đ sử dụng nhà đất, anh Đ có trách nhiệm trả cho chị H ½ giá trị tài sản là 2.500.000.000đ. Hiện tại anh Đ đang sử dụng nhà đất, việc giao nhà đất cho anh Đ sẽ giải quyết đúng nguyện vọng của anh Đ, vừa đảm bảo quyền lợi cho anh Đ nhưng không ảnh hưởng đến quyền lợi của chị H mà ngược lại chị H được lợi về tài sản (chị H được nhận giá trị tài sản nhiều hơn so với giá trị đã định giá là 744.800.000đ). [3] Trong Đơn đề nghị xét xử vắng mặt ngày 22/3/2022, chị H trình bày: Việc cung cấp tài liệu chứng cứ về các tài sản chung khác và công sức đóng góp vào khối tài sản chung nếu anh Đ có yêu cầu tại phiên tòa phúc thẩm thì chị đề nghị tạm ngừng phiên tòa để chị cung cấp chứng cứ. Xét thấy, trong suốt quá trình giải quyết vụ án anh Đ, chị H chỉ yêu cầu chia tài sản chung là nhà đất tại thửa đất số 40 tờ bản đồ số 35 khu đô thị Bắc TS, ngoài ra không còn tài sản nào khác. Nếu chị H, anh Đ có đưa ra tài sản chung khác và yêu cầu chia thì cấp phúc thẩm cũng không giải quyết trong vụ án này được. Chị H có quyền khởi kiện yêu cầu chia tài sản chung tiếp (nếu có đủ căn cứ) trong vụ án dân sự khác. Đối với công sức đóng góp vào khối tài sản chung, quá trình giải quyết tại cấp sơ thẩm và phúc thẩm, anh Đ, chị H đều đề nghị được hưởng ½ giá trị tài sản chung. Do đó, yêu cầu của chị H về việc tính công sức đóng góp của các bên vào khối tài sản chung không có cơ sở chấp nhận. Từ những nhận định trên, Hội đồng xét xử thấy cần chấp nhận kháng cáo của anh Nguyễn Huy Đ, sửa án sơ thẩm. Các nội dung khác không có kháng cáo, kháng nghị nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét. [4] Án phí và lệ phí: Chị Nguyễn Thị Liên H không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm. Anh Nguyễn Huy Đ phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo qui định của pháp luật trên giá trị tài sản được hưởng và không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm. [5] Lệ phí: Anh Đ phải chịu 2.500.000đ phí định giá tài sản ngày 02/3/2022 (anh Đ đã nộp đủ). Chị Nguyễn Thị Liên H và anh Nguyễn Huy Đ mỗi người phải chịu 2.500.000đ phí thẩm định, định giá tài sản ngày 21/7/2021, do chị H đã nộp 5.000.000đ tạm ứng nên anh Đ phải trả chị H 2.500.000đ phí thẩm định, định giá tài sản. Vì các lẽ trên; QUYẾT ĐỊNH Căn cứ khoản 2 Điều 308, Điều 313, Điều 148 Bộ Luật tố tụng dân sự năm 2015. Chấp nhận kháng cáo của anh Nguyễn Huy Đ, sửa bản án sơ thẩm. Căn cứ các Điều 28, 91, 92, 144, 147, 157, 165, 227, 254, 264, 266, 267 Bộ luật tố tụng dân sự; các Điều 33, 59 Luật hôn nhân và gia đình; các Điều 12, 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. 1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện chia tài sản chung sau ly hôn của chị Nguyễn Thị Liên H. Giao cho anh Nguyễn Huy Đ được quyền sử dụng đất thửa số 40, tờ bản đồ 35, diện tích 100m2, địa chỉ: Khu đô thị Bắc TS, phường Tân Hồng, thành phố TS, tỉnh BN và được quyền sở hữu công trình gắn liền với đất là ngôi nhà 03 tầng (đã được UBND thị xã TS cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất số BL 077185 ngày 12/10/2012, số vào sổ cấp GCN: CH02050 cho bà Nguyễn Thị Liên H và ông Nguyễn Huy Đ). Thửa đất có tứ cận như sau: Hướng Tây Bắc giáp đường nội bộ khu đô thị mặt cắt đường 13m, hướng Đông Nam giáp cống thoát nước, hướng Tây Bắc giáp thửa đất số 41, hướng Tây Nam giáp nhà ông Lịch. Anh Nguyễn Huy Đ phải trả chị Nguyễn Thị Liên H ½ giá trị tài sản chung là 2.500.000.000đ (hai tỷ năm trăm triệu đồng). Chị Nguyễn Thị Liên H phải trả lại anh Nguyễn Huy Đ: Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất số BL 077185 ngày 12/10/2012, số vào sổ cấp GCN: CH02050 của UBND thị xã TS cấp cho bà Nguyễn Thị Liên H và ông Nguyễn Huy Đ. Anh Nguyễn Huy Đ liên hệ với cơ quan nhà nước có thẩm quyền để chỉnh lý, xác lập quyền sử dụng đất và sở hữu tài sản trên đất theo quy định.
Docsity logo



Copyright © 2024 Ladybird Srl - Via Leonardo da Vinci 16, 10126, Torino, Italy - VAT 10816460017 - All rights reserved