Docsity
Docsity

Prepare for your exams
Prepare for your exams

Study with the several resources on Docsity


Earn points to download
Earn points to download

Earn points by helping other students or get them with a premium plan


Guidelines and tips
Guidelines and tips

Phap luat dai cuong nam 1, Lecture notes of Commercial Law

ndlqkefmd v flwfkwrgjn fewkfjwejf

Typology: Lecture notes

2021/2022

Uploaded on 05/13/2023

thom-pham-4
thom-pham-4 🇻🇳

1 document

Partial preview of the text

Download Phap luat dai cuong nam 1 and more Lecture notes Commercial Law in PDF only on Docsity! BỘ CÔNG THƯƠNG TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - KỸ THUẬT CÔNG NGHIỆP KHOA KHOA HỌC CƠ BẢN ----------o0o---------- TÀI LIỆU HỌC TẬP PHÁP LUẬT ĐẠI CƯƠNG Ngành đào tạo: Sử dụng cho sinh viên các ngành đào tạo Trình độ đào tạo: Đại học, cao đẳng Số tín chỉ: 2 tín chỉ HÀ NỘI, NĂM 2021 1 MỤC LỤC S LỜI NÓI ĐẦU .................................................................................................................... 5 Phần thứ nhất ..................................................................................................................... 6 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT .............. 6 Chương 1 ............................................................................................................................ 6 NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT ................................. 6 1.1. Những vấn đề cơ bản về nhà nước ............................................................................ 6 1.1.1. Nguồn gốc của nhà nước ........................................................................................... 6 1.1.2. Bản chất của nhà nước .............................................................................................. 9 1.1.3. Đặc điểm của nhà nước ........................................................................................... 10 1.1.4. Chức năng của nhà nước ......................................................................................... 11 1.1.5. Các kiểu nhà nước trong lịch sử ............................................................................. 12 1.2. Những vấn đề cơ bản về pháp luật.......................................................................... 13 1.2.1. Nguồn gốc của pháp luật ......................................................................................... 13 1.2.2. Bản chất của pháp luật ............................................................................................ 14 1.2.3. Các đặc điểm cơ bản của pháp luật ........................................................................ 14 1.2.4. Chức năng của pháp luật ........................................................................................ 15 1.2.5. Vai trò của pháp luật ............................................................................................... 16 1.2.6. Các kiểu pháp luật trong lịch sử ............................................................................. 17 Chương 2 .......................................................................................................................... 19 QUY PHẠM PHÁP LUẬT VÀ QUAN HỆ PHÁP LUẬT........................................... 19 2.1. Quy phạm pháp luật ................................................................................................. 19 2.1.1. Khái niệm quy phạm pháp luật ................................................................................ 19 2.1.2. Đặc điểm của quy phạm pháp luật .......................................................................... 20 2.1.3. Cấu trúc của quy phạm pháp luật ........................................................................... 21 2.2. Quan hệ pháp luật .................................................................................................... 25 2.2.1. Khái niệm quan hệ pháp luật................................................................................... 25 2.2.2. Đặc điểm của quan hệ pháp luật ............................................................................. 25 2.2.3. Thành phần của quan hệ pháp luật ......................................................................... 26 2.2.4. Sự kiện pháp lý ........................................................................................................ 30 Chương 3 .......................................................................................................................... 32 4 7.2.1. Khái niệm và đặc điểm ............................................................................................ 80 7.2.3. Cơ cấu của quan hệ pháp luật dân sự ..................................................................... 80 7.3. Một số chế định cơ bản của Luật dân sự ................................................................ 82 7.3.1. Chế định quyền sở hữu ............................................................................................ 82 7.3.2. Quyền thừa kế .......................................................................................................... 86 7.3.3. Hợp đồng ................................................................................................................. 94 Chương 8 .......................................................................................................................... 97 MỘT SỐ NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA PHÁP LUẬT VỀ ............................................. 97 PHÒNG, CHỐNG THAM NHŨNG .............................................................................. 97 8.1. Khái niệm về tham nhũng ............................................................................................ 97 8.1.1. Khái niệm và đặc điểm cơ bản của tham nhũng ............................................................ 97 8.1.2. Các hành vi tham nhũng theo quy định của pháp luật hiện hành .................................... 99 8.2. Tác hại của tham nhũng ......................................................................................... 101 8.2.1. Tác hại về chính trị ................................................................................................... 101 8.2.2. Tác hại về kinh tế .................................................................................................... 102 8.2.3. Tác hại về xã hội .................................................................................................... 103 8.3. Ý nghĩa, tầm quan trọng của công tác phòng, chống tham nhũng .................... 103 8.4. Trách nhiệm của công dân trong phòng chống tham nhũng ............................. 105 8.4.1.Trách nhiệm của công dân tham gia phòng, chống tham nhũng ........................... 105 8.4.2.Trách nhiệm của công dân trong tố cáo hành vi tham nhũng ................................ 106 TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................................. 109 5 LỜI NÓI ĐẦU Nhà nước và Pháp luật là hai “hiện tượng” chính trị xã hội phức tạp, luôn biến động và thay đổi. Trong những năm gần đây, Đảng và Nhà nước ta đã đặt ra yêu cầu giáo dục pháp luật trong các nhà trường thông qua chương trình môn học: “Pháp luật đại cương” đảm bảo đúng tinh thần của Hiến pháp và pháp luật hiện hành. Tại Trường Đại học Kinh tế Kỹ thuật Công nghiệp, môn học Pháp luật đại cương được đưa vào chương trình giảng dạy chính thức cho đối tượng sinh viên trình độ cao đẳng, đại học từ nhiều năm nay. Vì vậy, việc nghiên cứu, biên soạn tài liệu học tập Pháp luật đại cương để giảng dạy ở Trường Đại học Kinh tế Kỹ thuật Công nghiệp là hết sức cần thiết, có ý nghĩa thực tiễn cao. Nội dung tài liệu học tập cung cấp những kiến thức cơ bản nhất về nhà nước và pháp luật, các ngành luật cơ bản trong hệ thống pháp luật Việt Nam. Tài liệu học tập có kết cấu 2 phần, 8 chương: Phần thứ nhất: Những vấn đề lý luận chung về nhà nước và pháp luật Chương 1 - Những vấn đề cơ bản về nhà nước và pháp luật Chương 2 - Quy phạm pháp luật và Quan hệ pháp luật Chương 3 - Vi phạm pháp luật, trách nhiệm pháp lý Phần thứ hai: Một số ngành luật trong hệ thống pháp luật Việt Nam Chương 4 - Luật Hiến pháp Việt Nam Chương 5 - Luật Hành chính Việt Nam Chương 6 - Luật Hình sự Việt Nam Chương 7 - Luật Dân sự Việt Nam Chương 8 - Một số nội dung cơ bản của pháp luật về phòng, chống tham nhũng Tài liệu học tập Pháp luật đại cương có sự tham khảo, kế thừa các giáo trình, tài liệu tham khảo của một số trường Đại học uy tín trong nước, đồng thời cập nhật những quy định mới của pháp luật hiện hành để trang bị cho sinh viên, tuy nhiên không thể tránh khỏi những thiếu sót nhất định. Nhóm tác giả rất mong nhận được những ý kiến đóng góp quý báu của bạn đọc để tài liệu này được hoàn thiện hơn. 6 Phần thứ nhất NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT Mục đích: Trang bị cho người học những kiến thức cơ bản về hai hiện tượng Nhà nước và pháp luật. Kết thúc chương người học nắm được những kiến thức lý luận về các vấn đề cơ bản nhất của hai hiện tượng nhà nước và pháp luật như nguồn gốc ra đời, bản chất, các đặc điểm cơ bản, các chức năng cơ bản, vai trò của nhà nước và pháp luật trong xã hội hiện nay, các kiểu nhà nước trong lịch sử nhân loại qua đó có thể hiểu và lý giải một số vấn đề về hai hiện tượng này trong xã hội hiện nay. 1.1. Những vấn đề cơ bản về nhà nước 1.1.1. Nguồn gốc của nhà nước Nguồn gốc nhà nước là một trong những vấn đề quan trọng nhưng cũng rất phức tạp và được quan tâm nghiên cứu từ rất sớm. Từ thời kỳ cổ đại, trung đại đến thời kỳ cận đại, hiện đại cho đến nay đã có nhiều nhà tư tưởng nghiên cứu đưa ra những kiến giải khác nhau về nguồn gốc nhà nước. Mặc dù vẫn còn có không ít những tranh luận về vấn đề nguồn gốc nhà nước nhưng có thể nêu khái quát về một số học thuyết, quan điểm cơ bản về nguồn gốc nhà nước như sau: 1.1.1.1. Một số học thuyết phi Mác xít về nguồn gốc nhà nước Thuyết thần học: Thuyết này cho rằng thượng đế là người sắp đặt trật tự xã hội, nhà nước là do thượng đế sáng tạo ra để bảo vệ trật tự chung, nhà nước là thiết chế quyền lực của thượng đế; quyền lực của thượng đế là vĩnh cửu và sự phục tùng sức mạnh nhà nước là phục tùng quyền lực của thượng đế. Do đó nhà nước là hiện tượng siêu nhiên, vĩnh cửu, bất biến. Nhà nước luôn phụ thuộc vào ý chí thượng đế, được biểu hiện thông qua nhà thờ. Theo đó quyền lực của nhà thờ là quyền lực thứ nhất, còn quyền lực nhà nước là sự phái sinh từ quyền lực nhà thờ. Người đề xướng thuyết này là Agustin-nhà thần học thời trung cổ, ngoài ra còn có Lutter, Cavil, Langnet... Thuyết gia trưởng lại chứng minh rằng Nhà nước là kết quả từ sự phát triển của gia đình, coi đó là hình thức phát triển tự nhiên của cuộc sống, gia tộc được mở rộng dần ra thành nhà nước. Vì vậy, cách thức tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước cũng giống như ở gia đình. Nghĩa là trong gia đình quyền gia trưởng (người con trai trưởng) có quyền chi phối tối cao đối với gia tộc. Thuyết sinh học: Thuyết này cho rằng nhà nước giống như cơ thể sống, sự phát triển của nó diễn ra tương tự như sự tiến hóa của xã hội. Theo đó, các quy luật tiến hóa 9 vào trong tay của số ít người giàu có diễn ra nhanh chóng đồng thời thúc đẩy sự bần cùng hóa và sự tăng nhanh của đám đông dân nghèo. Số nô lệ tăng lên rất đông cùng với sự cưỡng bức và bóc lột ngày càng nặng nề của giai cấp chủ nô đối với họ. Sau ba lần phân công lao động xã hội, những yếu tố mới xuất hiện đã làm đảo lộn đời sống thị tộc. Xã hội mới ra đời-xã hội mà toàn bộ những điều kiện kinh tế của sự tồn tại của nó đã phân chia xã hội thành các giai cấp đối lập nhau, luôn luôn mâu thuẫn và đấu tranh gay gắt với nhau để bảo vệ lợi ích của giai cấp mình, tổ chức thị tộc trở thành bất lực, không thể phù hợp được nữa. Xã hội đó đòi hỏi phải có một tổ chức mới đủ sức mạnh để dập tắt các cuộc xung đột công khai giữa các giai cấp và tổ chức, giữ các xung đột ấy trong vòng trật tự, bảo vệ địa vị và lợi ích của giai cấp thống trị. Tổ chức đó là nhà nước và nhà nước đã xuất hiện. Sự xuất hiện nhà nước ở các vùng và của các dân tộc khác nhau cũng có những đặc điểm riêng do có những điều kiện kinh tế, xã hội và ngoại cảnh không giống nhau. Như vậy, có nhiều nhân tố tác động dẫn đến sự ra đời của nhà nước, trong đó nhân tố kinh tế và nhân tố xã hội giữ vai trò quyết định. Về kinh tế: Do có sự xuất hiện của chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất (chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất) Về xã hội: Mâu thuẫn giữa các giai cấp, tầng lớp có lợi ích khác đối lập nhau đến mức không điều hoà được. 1.1.2. Bản chất của nhà nước 1.1.2.1. Tính giai cấp của nhà nước - Nhà nước là bộ máy trấn áp đặc biệt của giai cấp này với giai cấp khác, là bộ máy để duy trì sự thống trị giai cấp (về kinh tế, tư tưởng, chính trị) - Nhà nước là sản phẩm của xã hội có giai cấp và biểu hiện của mâu thuẫn giai cấp không thể điều hoà được. - Nhà nước là công cụ cơ bản để bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị, là công cụ sắc bén nhất thể hiện và thực hiện ý chí của giai cấp cầm quyền. - Nhà nước là một hiện tượng thuộc kiến trúc thượng tầng hình thành trên một cơ sở kinh tế nhất định, thông qua nhà nước giai cấp thống trị xây dựng hệ tư tưởng của giai cấp mình thành hệ tư tưởng thống trị trong xã hội, buộc các giai cấp khác phải lệ thuộc. 1.1.2.2. Vai trò xã hội của nhà nước Tính xã hội của nhà nước thể hiện ở chỗ nhà nước là đại diện chính thức của toàn xã hội, vì thế ở mức độ này hay mức độ khác nhà nước phải có trách nhiệm xác lập, thực hiện và bảo vệ các lợi ích cơ bản, lâu dài của quốc gia, dân tộc và công dân của mình. Nhà nước tập hợp và huy động mọi tầng lớp trong xã hội vào việc thực hiện các nhiệm vụ chung để bảo vệ chủ quyền, phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội; duy trì trật tự xã hội và giải quyết những vấn đề trong nước và quốc tế. 10 Vai trò xã hội của nhà nước tuỳ thuộc vào bản chất giai cấp của nhà nước, là thuộc tính khách quan của Nhà nước. Tuy nhiên, mức độ và phạm vi của nó được biểu hiện trong mỗi kiểu nhà nước, trong mỗi nhà nước không hoàn toàn giống nhau. Điều này tùy thuộc vào nhiều yếu tố, điều kiện và hoàn cảnh lịch sử cụ thể. Nhà nước càng dân chủ thì vai trò xã hội của nhà nước càng thể hiện rõ. Nhà nước giải quyết các công việc mang tính xã hội, phục vụ cho lợi ích chung của xã hội: xây dựng các công trình phúc lợi xã hội, trường học, bệnh viện, công viên, đường sá... Do vậy, nhà nước là tổ chức quyền lực công cộng, là phương thức tổ chức và bảo đảm các lợi ích chung của xã hội. Khái niệm nhà nước: Nhà nước là một tổ chức đặc biệt của quyền lực chính trị, một bộ máy chuyên làm nhiệm vụ cưỡng chế và thực hiện chức năng quản lý, nhằm thực hiện mục đích và lợi ích của giai cấp thống trị trong xã hội có giai cấp. 1.1.3. Đặc điểm của nhà nước Mặc dù mỗi kiểu nhà nước có bản chất riêng nhưng các nhà nước đều có một số đặc điểm chung cơ bản sau đây. - Nhà nước phân chia lãnh thổ thành các đơn vị hành chính và thực hiện quản lý dân cư theo lãnh thổ. Lãnh thổ và dân cư là hai yếu tố căn bản nhất để cấu thành nhà nước và để triển khai quyền lực nhà nước. Việc phân định lãnh thổ thành các đơn vị hành chính tạo ra khả năng để tổ chức bộ máy nhà nước một cách chặt chẽ và thống nhất với sự phân công, phân cấp hợp lý. Việc phân chia và quản lý dân cư theo lãnh thổ không phụ thuộc vào chính kiến, huyết thống, nghề nghiệp hoặc giới tính... thể hiện nét đặc thù của nhà nước so với các tổ chức phi nhà nước. - Nhà nước thiết lập quyền lực công cộng đặc biệt, chủ thể của quyền lực này là giai cấp thống trị về kinh tế và chính trị trong xã hội. Quyền lực công cộng đặc biệt được thiết lập thông qua bộ máy nhà nước chuyên làm chức năng quản lý hành chính nhà nước và cưỡng chế với những phương tiện công cụ đủ mạnh để duy trì trật tự xã hội trên các lĩnh vực theo ý chí của giai cấp cầm quyền. - Nhà nước có chủ quyền quốc gia. Chủ quyền quốc gia mang nội dung chính trị pháp lý, thể hiện ở quyền độc lập tự quyết của nhà nước về những chính sách đối nội và đối ngoại không phụ thuộc vào các yếu tố bên ngoài. Chủ quyền quốc gia là thuộc tính không thể chia cắt của nhà nước. Với tư cách là đại diện chính thức của toàn xã hội, nhà nước là tổ chức duy nhất được trao quyền và trách nhiệm về tuyên bố, thực hiện và bảo vệ chủ quyền quốc gia. - Nhà nước có quyền ban hành pháp luật và thực hiện quản lý xã hội bằng pháp luật. Pháp luật là phương tiện đặc biệt quan trọng để tổ chức và quản lý xã hội. Với tư cách là người đại diện chính thức của toàn bộ xã hội, nhà nước là tổ chức duy nhất có 11 quyền ban hành pháp luật. Pháp luật do nhà nước ban hành nên nó có tính bắt buộc chung đối với các chủ thể (cơ quan, tổ chức và cá nhân công dân); mọi cơ quan, tổ chức và cá nhân đều phải tôn trọng và bảo vệ pháp luật. - Nhà nước có quyền quy định và thực hiện việc thu các loại thuế dưới các hình thức bắt buộc, với số lượng và thời hạn ấn định trước. Thuế là phần vật chất mà nhà nước thu của các tổ chức và người sản xuất kinh doanh hoặc sử dụng tài sản của nhà nước... theo những quy định chặt chẽ về số lượng theo những đơn vị thời gian nhất định, đây là nguồn vật chất đáng kể đóng góp vào ngân sách đảm bảo hoạt động của nhà nước. Việc đặt ra các loại thuế là xuất phát từ nhu cầu tạo lập nguồn tài chính để nuôi dưỡng bộ máy nhà nước. Thiếu thuế, bộ máy nhà nước không thể tồn tại được. Chỉ có nhà nước mới có quyền quy định và thu thuế vì nhà nước là tổ chức duy nhất có tư cách đại diện chính thức của toàn xã hội. 1.1.4. Chức năng của nhà nước Chức năng của nhà nước là những phương diện hoạt động cơ bản, quan trọng nhất của nhà nước, phù hợp với bản chất, mục đích, nhiệm vụ quản lý nhà nước trên các lĩnh vực của đời sống xã hội. Chức năng của nhà nước được xác định từ bản chất, vai trò của nhà nước trong đời sống xã hội và ngược lại, các chức năng nhà nước lại là sự biểu hiện cụ thể của bản chất và vai trò của nhà nước. Nội dung và tính chất của các chức năng nhà nước chịu sự tác động của nhiều yếu tố như kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, môi trường sinh thái, tình hình quốc tế... Tùy thuộc vào cách tiếp cận và nhận thức, chức năng nhà nước có thể được xác định và giải thích theo những tiêu chí khác nhau. Cách tiếp cận truyền thống chia chức năng của nhà nước thành chức năng đối nội và chức năng đối ngoại, coi các lĩnh vực của đời sống xã hội là khách thể của quản lý nhà nước và mục đích, yêu cầu quản lý nhà nước theo từng lĩnh vực là tiêu chí căn bản để phân định chức năng của nhà nước. 1.1.4.1. Chức năng đối nội Chức năng đối nội là phương diện hoạt động cơ bản của nhà nước trong nội bộ đất nước để quản lý các lĩnh vực của đời sống xã hội, bao gồm: - Chức năng chính trị: nội dung chủ yếu là thiết lập hệ thống các thiết chế quyền lực nhà nước thống nhất, đồng bộ, hiệu quả, tiến hành các hoạt động để bảo vệ chủ quyền quốc gia, bảo đảm an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội, trấn áp những phần tử phản động có những hành vi chống đối chính quyền, xâm phạm quyền tự do dân chủ và lợi ích hợp pháp của công dân; xác lập các nguyên tắc, quy định tạo cơ sở pháp lý cho việc quản lí các tổ chức và cá nhân khi tham gia vào các quan hệ chính trị. - Chức năng kinh tế: thể hiện vai trò của nhà nước trong việc xác lập và bảo vệ chế độ kinh tế phù hợp với bản chất nhà nước và trình độ phát triển kinh tế - xã hội trong từng thời kì bằng các hoạt động chủ yếu như: ban hành chính sách, kế hoạch về phát triển kinh tế của đất nước; tạo điều kiện cho các chủ thể kinh tế tiến hành các hoạt động sản 14 * Con đường hình thành pháp luật: thực chất là quá trình, cách thức tạo nên pháp luật trong lịch sử. Pháp luật không phải ngẫu nhiên mà có và càng không phải là hiện tượng được áp đặt từ ngoài vào xã hội mà nó là sản phẩm của ý thức con người. Trong thực tiễn lịch sử, pháp luật hình thành bằng những con đường cơ bản sau: - Thứ nhất: Do nhà nước cải cách hoặc thừa nhận các quy phạm xã hội, phong tục, tập quán biến chúng thành pháp luật - Thứ hai: Nhà nước ban hành các văn bản quy phạm pháp luật - Thứ ba: Nhà nước thừa nhận các tiền lệ pháp hoặc án lệ của toà án. 1.2.2. Bản chất của pháp luật - Tính giai cấp: Tính giai cấp của pháp luật thể hiện trước hết ở chỗ pháp luật phản ánh ý chí của giai cấp thống trị. Giai cấp thống trị nắm trong tay bộ máy nhà nước do đó phải sử dụng chính bộ máy đó để thể hiện ý chí của giai cấp mình một cách tập trung, thống nhất, trở thành ý chí nhà nước, ý chí đó được thể chế hóa thành các văn bản pháp luật do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành. Pháp luật là nhân tố điều chỉnh về mặt giai cấp các mối quan hệ xã hội. Pháp luật chính là phương tiện để thực hiện sự thống trị giai cấp hay bảo đảm chuyên chính giai cấp. Pháp luật là con đẻ của xã hội có giai cấp, bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị. Pháp luật là công cụ điều chỉnh các quan hệ xã hội theo hướng có lợi cho giai cấp thống trị. - Tính xã hội: Pháp luật bao giờ cũng là công cụ hữu hiệu để bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị. Tuy nhiên, pháp luật còn là công cụ, phương tiện để tổ chức đời sống xã hội. Ở mức độ nhiều hay ít pháp luật còn thể hiện ý chí và lợi ích của các giai cấp, tầng lớp khác nhau trong xã hội. Khái niệm pháp luật: Pháp luật là hệ thống các quy phạm (quy tắc hành vi hay quy tắc xử sự) có tính bắt buộc chung nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội, do nhà nước ban hành (hoặc thừa nhận) thể hiện ý chí nhà nước và được nhà nước bảo đảm thực hiện bằng các biện pháp tổ chức, giáo dục, thuyết phục, cưỡng chế bằng bộ máy nhà nước. 1.2.3. Các đặc điểm cơ bản của pháp luật Trong xã hội có nhiều loại quy phạm, nhưng chỉ có quy phạm pháp luật mới có đặc điểm riêng của nó. Đây là ưu thế vượt trội hơn hẳn của quy phạm pháp luật so với những quy phạm xã hội khác. Thứ nhất, pháp luật mang tính quy phạm phổ biến. - Pháp luật là hệ thống quy tắc xử sự, là khuôn mẫu, thước đo, chuẩn mực pháp lý cho hành vi của con người và tổ chức của họ. Những quy định của pháp luật đã xác định 15 về giới hạn cần thiết mà Nhà nước quy định cho các chủ thể. Thông qua việc giới hạn và hướng dẫn hành vi mà pháp luật tạo ra hành lang an toàn cho hoạt động của tổ chức và cá nhân. - Pháp luật có tính phổ biến: có hiệu lực bắt buộc đối với mọi tổ chức và cá nhân trên toàn lãnh thổ, với thời gian dài và không chỉ để giải quyết một vụ việc cụ thể đối với một đối tượng cụ thể. - Tính bắt buộc chung của pháp luật: bất cứ chủ thể nào rơi vào hoàn cảnh đã được pháp luật xác định đều phải xử sự theo quy định, yêu cầu của pháp luật. Thứ hai, pháp luật có tính xác định chặt chẽ về mặt hình thức Nội dung pháp luật luôn được thể hiện dưới những hình thức nhất định, nói cách khác, những quy định pháp luật phải được chứa đựng trong các nguồn luật, tập quán pháp, tiền lệ pháp, văn bản quy phạm pháp luật... Sự xác định chặt chẽ về hình thức là điều kiện để phân biệt giữa pháp luật với những quy định không phải là pháp luật, đồng thời cũng tạo nên sự thống nhất, chặt chẽ, rõ ràng, chính xác về nội dung của pháp luật. Thứ ba, pháp luật có tính cưỡng chế (tính quyền lực nhà nước) Tính cưỡng chế nhà nước là một đặc điểm chỉ riêng pháp luật mới có. Nhà nước không những ban hành pháp luật làm quy tắc xử sự của hành vi, mà còn có một hệ thống cơ quan nhà nước đảm bảo cho những quy tắc ấy được thực hiện trong thực tế. Khi pháp luật được ban hành, mọi cơ quan, đơn vị, tổ chức, cá nhân trong xã hội đều phải tuân theo. Việc tuân thủ theo pháp luật không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người, không phụ thuộc vào nghề nghiệp, địa vị, giới tính, tuổi tác, tôn giáo..... của họ. Nhà nước sử dụng bộ máy quyền lực thực hiện cưỡng chế nếu có hành vi vi phạm pháp luật. 1.2.4. Chức năng của pháp luật Chức năng của pháp luật là những tác động của pháp luật đến các quan hệ xã hội nhằm duy trì trật tự và đem lại lợi ích cho xã hội trong đó có lợi ích của giai cấp thống trị. Pháp luật có ba chức năng cơ bản là chức năng điều chỉnh, chức năng bảo vệ và chức năng giáo dục. 1.2.4.1. Chức năng điều chỉnh Pháp luật tác động trực tiếp tới các quan hệ xã hội cơ bản và tạo hành lang pháp lý để hướng các quan hệ xã hội phát triển trong một trật tự nhất định và ổn định theo mục tiêu mong muốn. Nghĩa là: - Pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội theo trật tự nhất định và phạm vi, khuôn mẫu chung. - Pháp luật tạo điều kiện cho các quan hệ xã hội phát triển theo chiều hướng phù hợp với ý chí giai cấp thống trị, phù hợp với quy luật vận động khách quan. 16 - Pháp luật điều chỉnh các mối quan hệ xã hội thông qua việc quy định về quyền và nghĩa vụ cho các chủ thể trong xã hội dưới những hình thức như cho phép, bắt buộc, ngăn cấm hay khuyến khích, hướng dẫn thực hiện.... 1.2.4.2. Chức năng bảo vệ - Là bảo vệ những quan hệ xã hội được nhà nước xác nhận hoặc thừa nhận khỏi bị xâm phạm bất luận từ hướng nào. - Chức năng này được thực hiện bởi: + Pháp luật đăng tải thái độ của nhà nước về các quan hệ xã hội cần được bảo vệ, do đó mọi người ý thức được cách xử sự của mình. + Thông qua các chế tài pháp lý và các quy định về xử lý vi phạm pháp luật mà các vi phạm pháp luật bị phát hiện kịp thời, xử lý nghiêm minh, hậu quả gây ra đều được khắc phục. 1.2.4.3. Chức năng giáo dục Pháp luật tác động đến ý thức của người dân để họ nhận thức và thực hiện hành vi đúng theo 2 hướng cơ bản sau: - Pháp luật chứa đựng những giá trị nhân bản nên có tính thuyết phục sâu sắc - Pháp luật đăng tải thông tin giúp con người nhận thức, lựa chọn và đánh giá được hành vi đúng khi tham gia vào quan hệ xã hội và biết cách xử sự khi gặp hành vi sai. 1.2.5. Vai trò của pháp luật - Pháp luật là cơ sở để thiết lập, củng cố và tăng quyền lực nhà nước. Bộ máy nhà nước là một thiết chế phức tạp bao gồm nhiều bộ phận (nhiều loại cơ quan). Để bộ máy đó hoạt động có hiệu quả đòi hỏi phải xác định đúng chức năng, thẩm quyền, trách nhiệm của mỗi loại cơ quan, mỗi cơ quan; phải xác lập mối quan hệ đúng đắn giữa chúng; phải có những phương pháp tổ chức và hoạt động phù hợp để tạo ra một cơ chế đồng bộ trong quá trình thiết lập và thực thi quyền lực nhà nước. Tất cả những điều đó chỉ có thể thực hiện được khi dựa trên cơ sở vững chắc của những nguyên tắc và quy định cụ thể của pháp luật. - Pháp luật là phương tiện để nhà nước quản lý kinh tế, quản lý xã hội. Để quản lý xã hội, nhà nước dùng nhiều phương tiện, nhiều biện pháp, nhưng pháp luật là phương tiện quan trọng nhất. Với những đặc điểm riêng của mình, pháp luật có khả năng triển khai những chủ trương, chính sách của nhà nước một cách nhanh nhất, đồng bộ và có hiệu quả nhất trên qui mô rộng lớn nhất. Cũng nhờ có pháp luật, nhà nước có cơ sở để phát huy quyền lực và kiểm tra, kiểm soát các hoạt động của các tổ chức, các cơ quan, các nhân viên nhà nước và mọi công dân. Trong tổ chức và quản lý kinh tế, pháp luật lại càng có vai trò lớn. Bởi vì, chức năng tổ chức và quản lý kinh tế của nhà nước có phạm vi rộng và phức tạp, bao gồm nhiều vấn đề, nhiều mối quan hệ nhà nước cần xác lập như: hoạch định chính sách kinh 19 Chương 2 QUY PHẠM PHÁP LUẬT VÀ QUAN HỆ PHÁP LUẬT Mục đích: - Trang bị cho người học những kiến thức cơ bản về quy phạm pháp luật; quan hệ pháp luật và sự kiện pháp lý. - Kết thúc chương người học nắm được khái niệm, đặc điểm của quy phạm pháp luật, có thể xác định được cấu trúc của các quy phạm pháp luật và vị trí của quy phạm pháp luật trong hệ thống pháp luật Việt Nam, từ đó vận dụng để tra cứu quy định pháp luật giải quyết các tình huống thực tiễn. Bên cạnh đó, người học nắm được mối quan hệ giữa quy phạm pháp luật và quan hệ pháp luật, có thể phân tích các thành phần của quan hệ pháp luật, mối quan hệ giữa sự kiện pháp lý và các quan hệ pháp luật. 2.1. Quy phạm pháp luật 2.1.1. Khái niệm quy phạm pháp luật Trong đời sống xã hội, mỗi người luôn phải tuân theo những quy tắc chung nhất định trong các quan hệ giữa con người với nhau. Khoa học pháp lý gọi các quy tắc xử sự chung đó là quy phạm. Tùy theo nguồn gốc hình thành và phạm vi tác động, các quy phạm có thể là: quy phạm đạo đức, quy phạm tôn giáo, quy phạm của một tổ chức xã hội, quy phạm pháp luật. Như vậy, quy phạm pháp luật là một trong số những quy phạm xã hội. Quy phạm pháp luật là yếu tố đầu tiên xây dựng hệ thống pháp luật. Quy phạm pháp luật là một dạng của quy phạm xã hội, vừa có dấu hiệu chung của quy phạm xã hội vừa có đặc điểm riêng. Đặc điểm riêng này bắt nguồn từ mối quan hệ với nhà nước, đó là: theo nội dung, quy phạm pháp luật là ý chí của giai cấp thống trị. Quy phạm pháp luật là quy tắc hành vi có tính bắt buộc chung đối với mọi người tham gia quan hệ xã hội do nó điều chỉnh. Việc thực hiện quy phạm pháp luật được nhà nước thừa nhận và được bảo đảm bằng sự cưỡng chế của nhà nước. Tại khoản 1 Điều 3 của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015 quy định: “Quy phạm pháp luật là quy tắc xử sự chung, có hiệu lực bắt buộc chung, được áp dụng lặp đi lặp lại nhiều lần đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trong phạm vi cả nước hoặc đơn vị hành chính nhất định, do cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền quy định trong Luật này ban hành và được Nhà nước bảo đảm thực hiện”. Như vậy, quy phạm pháp luật là quy tắc xử sự chung do Nhà nước ban hành và đảm bảo thực hiện để điều chỉnh quan hệ xã hội theo những định hướng và nhằm đạt được những mục đích nhất định. Trong hệ thống pháp luật, quy phạm pháp luật là yếu tố cơ bản nhất cấu thành các chế định pháp luật. Chính vì vậy, các quy phạm pháp luật không tồn tại biệt lập mà có 20 mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau. Nội dung của các quy phạm pháp luật càng thống nhất thì càng cho thấy sự hoàn chỉnh của một hệ thống pháp luật. Nếu yếu tố này không được đảm bảo sẽ dẫn đến tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo trong các quy định của pháp luật. Để đảm bảo sự thống nhất về nội dung và phù hợp với thực tế cuộc sống, các quy phạm pháp luật có thể được sửa đổi, bổ sung nên nó chỉ mang tính ổn định tương đối mà không phải là yếu tố nhất thành bất biến. 2.1.2. Đặc điểm của quy phạm pháp luật Quy phạm pháp luật là một loại quy phạm xã hội, vì vậy nó mang đầy đủ những đặc tính chung của quy phạm xã hội như: là quy tắc xử sự chung, là khuôn mẫu để mọi người làm theo, là tiêu chuẩn để xác định giới hạn và đánh giá hành vi của con người….Thông qua quy phạm pháp luật các chủ thể biết được hoạt động nào có ý nghĩa pháp lý, hoạt động nào không có ý nghĩa pháp lý, hoạt động nào phù hợp với pháp luật, hoạt động nào trái với pháp luật…. Ví dụ : Căn cứ vào quy phạm pháp luật để biết được đâu là hoạt động tình cảm, đâu là hoạt động pháp luật hoặc để đánh giá hành vi nào là trộm cắp, hành vi nào là lừa đảo, cướp,… phải căn cứ vào các quy phạm pháp luật luật hình sự. Do vậy, ngoài những đặc điểm chung của quy phạm xã hội thì quy phạm pháp luật có các đặc điểm riêng biệt, là cơ sở để phân biệt với các quy phạm xã hội. - Quy phạm pháp luật là các quy tắc xử sự chung, quy phạm pháp luật được ban hành không phải cho một hoặc một số chủ thể nhất định mà cho tất cả những chủ thể của các quan hệ xã hội mà nó điều chỉnh. Bất cứ chủ thể nào thuộc đối tượng đã được nội dung của quy phạm pháp luật dự liệu đều phải chịu sự điều chỉnh của quy phạm pháp luật đó. Đối tượng chủ thể chịu sự tác động của mỗi quy phạm pháp luật có thể rộng hẹp khác nhau nhưng nếu đã được xác định trong quy phạm pháp luật thì bắt buộc các chủ thể phải tuân thủ quy định đó. Tính chất chung của quy phạm pháp luật còn thể hiện ở việc quy phạm pháp luật điều chỉnh một quan hệ xã hội chung, nghĩa là mỗi quan hệ xã hội cụ thể ngoài đặc điểm chung thì còn có nhiều điểm riêng biệt, nhưng quy phạm pháp luật đã thống nhất tất cả các điểm đó và thiết lập ra quy tắc xử sự có tính chất chung cho tất cả các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật chung đó. Ví dụ, người mua và người bán trong quan hệ mua bán hàng hóa có thể thiết lập nhiều quan hệ mua bán cụ thể với đặc điểm riêng của từng mối quan hệ, nhưng tất cả những người mua và người bán đều phải tuân thủ các quy tắc có tính chất chung được quy định trong pháp luật dân sự. Quy phạm pháp luật là các quy tắc xử sự chung còn thể hiện ở chỗ chúng được sử dụng nhiều lần, lặp đi lặp lại trong tất cả mọi trường hợp khi xuất hiện những hoàn cảnh, điều kiện đã được dự liệu. Quy phạm pháp luật tồn tại trong thời gian tương đối dài cho đến khi nó bị thay đổi hoặc hết hiệu lực. Khi quy phạm pháp luật còn hiệu lực thì nó vẫn được thực hiện và được bảo đảm bằng sức mạnh cưỡng chế của Nhà nước. 21 - Quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành và bảo đảm thực hiện, nhà nước là chủ thể duy nhất có quyền ban hành các quy phạm pháp luật. Nếu như các quy phạm xã hội khác do nhiều chủ thể khác nhau ban hành thì quy phạm pháp luật chỉ do Nhà nước ban hành và bảo đảm thực hiện. Quy phạm pháp luật là yếu tố cơ bản nhất cấu thành hệ thống pháp luật bởi vậy nó cũng chứa đựng ý chí của Nhà nước. Nhà nước thể hiện ý chí của mình trong quy phạm pháp luật bằng cách xác định những đối tượng nào, trong hoàn cảnh, điều kiện nào thì phải chịu sự tác động của quy phạm pháp luật, quy định quyền, nghĩa vụ của chủ thể và những biện pháp cưỡng chế mà họ phải gánh chịu nếu các chủ thể đó có hành vi vi phạm. Đặc điểm này thể hiện sự khác biệt cơ bản giữa quy phạm pháp luật với các loại quy phạm xã hội khác. - Quy phạm pháp luật là tiêu chuẩn để xác định giới hạn và đánh giá hành vi của con người, với tư cách là các quy tắc xử sự, quy phạm pháp luật định ra các chuẩn mực và giới hạn cho hành vi của con người. Hành vi phù hợp với chuẩn mực và nằm trong giới hạn do quy phạm pháp luật định ra được gọi là hành vi hợp pháp, ngược lại là hành vi trái pháp luật. Nếu hành vi trái pháp luật có đầy đủ các yếu tố cấu thành vi phạm pháp luật thì chủ thể thực hiện hành vi đó sẽ bị truy cứu trách nhiệm pháp lý. - Quy phạm pháp luật là công cụ điều chỉnh quan hệ xã hội, quy phạm pháp luật chứa đựng những chỉ dẫn về khả năng và phạm vi có thể xử sự cũng như những nghĩa vụ của các bên tham gia quan hệ pháp luật mà nó điều chỉnh. Các quyền và nghĩa vụ được quy phạm pháp luật dự liệu cho các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật mà nó điều chỉnh luôn có sự liên hệ mật thiết với nhau. 2.1.3. Cấu trúc của quy phạm pháp luật Cấu trúc của quy phạm pháp luật là cơ cấu bên trong, là các bộ phận hợp thành quy phạm pháp luật ở dạng chung nhất, cấu trúc của quy phạm pháp luật có dạng “nếu - thì - khác”; tương ứng với ba yếu tố này là ba bộ phận cấu thành là: giả định, quy định, chế tài tạo thành cấu trúc của một quy phạm pháp luật. Về mặt nội dung, một quy phạm pháp luật bao giờ cũng có đủ 3 bộ phận: giả định - quy định - chế tài. Về mặt hình thức, một quy phạm pháp luật thông thường chỉ có 2 dạng: giả định - quy định hoặc giả định - chế tài. 2.1.3.1. Giả định Giả định là một bộ phận của quy phạm pháp luật, nêu lên đối tượng chịu tác động của quy phạm pháp luật; nghĩa là nêu lên các điều kiện, hoàn cảnh có thể xảy ra trong cuộc sống; và cá nhân, tổ chức nào trong điều kiện, hoàn cảnh đó phải chịu sự tác động đó. Bộ phận giả định của quy phạm pháp luật nêu ra những tình huống (hoàn cảnh, điều kiện) có thể xảy ra trong đời sống xã hội mà quy phạm pháp luật sẽ tác động đối với chủ thể (cá nhân, tổ chức) nhất định, nói cách khác giả định nêu lên phạm vi tác động của quy phạm pháp luật đối với cá nhân hay tổ chức nào, trong những hoàn cảnh, điều kiện nào? 24 Ví dụ: Điều 17 Luật hộ tịch 2014 và điều 10 Nghị định 123/2015/NĐ-CP quy định: “Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi cư trú của một trong hai bên kết hôn là cơ quan đăng ký kết hôn”. Phân loại quy định: - Theo mức độ xác định của quy tắc hành vi, quy định được phân thành: quy định xác định, ví dụ: “Công dân đủ mười tám tuổi trở lên có quyền bầu cử và đủ hai mươi mốt tuổi trở lên có quyền ứng cử vào Quốc hội, Hội đồng nhân dân…” (Điều 27 Hiến pháp 2013); quy định tùy nghi, ví dụ: “Trường hợp hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân tham gia quan hệ dân sự thì các thành viên của hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân là chủ thể tham gia xác lập, thực hiện giao dịch dân sự hoặc ủy quyền cho người đại diện tham gia xác lập, thực hiện giao dịch dân sự. Việc ủy quyền phải được lập thành văn bản, trừ trường hợp có thỏa thuận khác...” (Khoản 1 Điều 101 Bộ luật Dân sự 2015). - Theo khả năng thể hiện, quy định được chia thành: quy định đơn giản, ví dụ: “Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật” (Điều 16 Hiến pháp 2013) và quy định chi tiết, ví dụ: “Trường hợp các bên không có thoả thuận và pháp luật không quy định thì có thể áp dụng tập quán nhưng tập quán áp dụng không được trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự quy định tại Điều 3 của Bộ luật này” (Khoản 2 Điều 5 Bộ luật Dân sự 2015). - Ngoài ra tùy thuộc vào tính chất, phương pháp tác động lên các quan hệ xã hội còn có các quy định hướng dẫn, cho phép, cấm đoán, bắt buộc hay trao quyền,…. 2.1.3.3. Chế tài Chế tài là một bộ phận của quy phạm pháp luật, nêu lên những biện pháp tác động mà nhà nước dự kiến áp dụng để đảm bảo pháp luật được thực hiện nghiêm minh. Bộ phận chế tài của quy phạm pháp luật nêu lên những biện pháp tác động mà nhà nước dự kiến áp dụng đối với chủ thể không thực hiện đúng mệnh lệnh của nhà nước đã được nêu ra trong phần quy định của quy phạm pháp luật. Hay nói cách khác, chế tài là hậu quả pháp lý bất lợi mà bên vi phạm pháp luật phải chịu trách nhiệm trước nhà nước. Chế tài là một trong những biện pháp quan trọng để đảm bảo cho các quy định của pháp luật được thực hiện nghiêm minh. Đây là bộ phận trả lời cho câu hỏi: Các chủ thể có thẩm quyền có thể áp dụng những biện pháp nào đối với chủ thể đã vi phạm pháp luật, không thực hiện đúng mệnh lệnh đã được nêu trong quy định của quy phạm pháp luật. Ví dụ: “Phạt tiền từ 100.000 đồng đến 200.000 đồng đối với người điều khiển, người ngồi trên xe máy không đội mũ bảo hiểm hoặc đội mũ bảo hiểm không cài đúng quy cách khi tham gia giao thông trên đường bộ” (Điều 9, Nghị định 71/2012/NĐ-CP sửa đổi bổ sung Nghị định 34/2010/NĐ-CP về vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ) thì bộ phận chế tài là “Phạt tiền từ 100.000 đồng đến 200.000 đồng”. Tức là, những“người điều khiển, người ngồi trên xe đạp máy” không “đội mũ bảo hiểm 25 có cài quai đúng quy cách” theo quy định tại Khoản 2, Điều 31 Luật giao thông đường bộ 2008 thì sẽ bị áp dụng chế tài “Phạt tiền từ 100.000 đồng đến 200.000 đồng”. Còn đối với các chủ thể được nêu ở bộ phận giả định của quy phạm pháp luật thì được gián tiếp thông báo hoặc cảnh báo cho họ biết là nếu như họ ở vào những tình huống như đã nêu ở bộ phận giả định của quy phạm pháp luật thì họ phải chịu những hậu quả bất lợi, bị trừng phạt bằng những biện pháp gì. Ví dụ: “Người nào đối xử tàn ác, thường xuyên ức hiếp, ngược đãi hoặc làm nhục người lệ thuộc mình làm người đó tự sát, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm”, thì bộ phận chế tài là “thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm” (Khoản 1 Điều 130 Bộ luật hình sự 2015). Bộ phận chế tài của quy phạm có thể cố định hoặc không cố định: Chế tài cố định là chế tài trong đó nêu chính xác, cụ thể biện pháp tác động sẽ áp dụng đối với chủ thể vi phạm pháp luật; chế tài không cố định là chế tài nêu lên nhiều biện pháp tác động (không nêu biện pháp tác động một cách chính xác, cụ thể, dứt khoát hoặc chỉ quy định mức thấp nhất và mức cao nhất của biện pháp tác động). Việc áp dụng biện pháp nào, mức độ bao nhiêu, là do chủ thể có thẩm quyền áp dụng quy phạm lựa chọn cho phù hợp với hoàn cảnh, điều kiện cụ thể của từng vụ việc cần áp dụng. Các biện pháp cưỡng chế mà nhà nước nêu ra trong bộ phận chế tài của quy phạm pháp luật để áp dụng rất đa dạng, đó có thể là các biện pháp xử phạt hành chính, bồi thường dân sự hoặc áp dụng hình phạt…. Chế tài bao gồm: Chế tài hình sự, chế tài hành chính, chế tài dân sự, chế tài kỷ luật. 2.2. Quan hệ pháp luật 2.2.1. Khái niệm quan hệ pháp luật Mỗi quy phạm pháp luật nhằm điều chỉnh một quan hệ xã hội nhất định, quan hệ giữa người với người trong sản xuất, trao đổi, phân phối, tiêu dùng... khi đó mỗi quan hệ xã hội buộc phải có những cách xử sự nhất định phù hợp với ý chí của giai cấp thống trị, với đòi hỏi của nhà nước thể hiện trong các quy phạm pháp luật, trở thành người mang quyền và nghĩa vụ pháp lý cụ thể. Sự giao tiếp giữa con người với con người trong đời sống xã hội hình thành các quan hệ xã hội như: quan hệ chính trị, pháp luật, kinh tế, gia đình… Các quan hệ pháp luật được hình thành do sự điều chỉnh của các quy phạm pháp luật đối với các quan hệ xã hội. Đó là quan hệ được thể hiện dưới hình thức pháp lý mang tính quy định bắt buộc chung. Như vậy, quan hệ pháp luật là quan hệ giữa người với người (quan hệ xã hội) do một quy phạm pháp luật điều chỉnh, biểu hiện thành quyền và nghĩa vụ pháp lý cụ thể của các bên, được đảm bảo bằng sự cưỡng chế của nhà nước. 2.2.2. Đặc điểm của quan hệ pháp luật 26 - Quan hệ pháp luật là quan hệ xã hội mang tính ý chí: Quan hệ pháp luật xuất hiện do ý chí của con người, nó được hình thành thông qua hoạt động có ý chí của con người. Yếu tố ý chí trong quan hệ pháp luật được thể hiện bao gồm ý chí nhà nước (phát sinh trên cơ sở quy phạm pháp luật) và ý chí của các bên chủ thể quan hệ đó trong sự phù hợp với ý chí nhà nước. Tính ý chí của quan hệ pháp luật thể hiện ở chỗ quan hệ pháp luật là dạng quan hệ cụ thể hình thành giữa những chủ thể nhất định. Các quan hệ này được hình thành thông qua hành vi của các chủ thể; phát sinh, thay đổi và chấm dứt do ý chí của các bên chủ thể. Có những quan hệ pháp luật được hình thành trên cơ sở ý chí nhà nước (thông qua các quy phạm pháp luật) và ý chí của các bên chủ thể, như quan hệ hợp đồng. Cũng có những loại quan hệ pháp luật được hình thành trên cơ sở ý chí nhà nước (trong đó nhà nước đóng vai trò một bên chủ thể), như quan hệ pháp luật hình sự, hành chính, quan hệ pháp luật ngân sách nhà nước (các loại thuế).... - Quan hệ pháp luật thuộc loại quan hệ tư tưởng. Quan hệ pháp luật thuộc kiến trúc thượng tầng và phụ thuộc vào cơ sở hạ tầng. - Quan hệ pháp luật xuất hiện trên cơ sở các quy phạm pháp luật: Quan hệ xã hội trở thành quan hệ pháp luật khi có sự điều chỉnh của quy phạm pháp luật, nhà nước ban hành quy phạm pháp luật để điều chỉnh một số quan hệ xã hội nhất định, còn lại được điều chỉnh bởi các quy phạm xã hội khác như đạo đức, tôn giáo, phong tục, tập quán.... Quy phạm pháp luật quy định các quyền chủ thể và nghĩa vụ pháp lý. Những quyền và nghĩa vụ này được thực hiện trong các quan hệ pháp luật của đời sống thực tế, trên cơ sở những điều kiện tương ứng của các quy phạm pháp luật đã được dự liệu trong phần giả định của các quy phạm pháp luật. - Quan hệ pháp luật là quan hệ mà các bên tham gia mang những quyền chủ thể và nghĩa vụ pháp lý được đảm bảo thực hiện bằng sự cưỡng chế của nhà nước. Quyền và nghĩa vụ pháp lý của các bên tham gia quan hệ pháp luật do quy phạm pháp luật quy định và bảo đảm thực hiện, các bên được phép hoặc bắt buộc phải tiến hành những xử sự nào đó, những xử sự này do pháp luật quy định. Bằng hành vi của mình, các bên tham gia quan hệ pháp luật đã cụ thể hoá các cách xử sự mà quy phạm đã nêu thành quyền và nghĩa vụ pháp lý cho mình. Trong trường hợp các bên thực hiện không đúng các quyền và nghĩa vụ pháp lý thì họ phải chịu trách nhiệm về hành vi của mình, phải gánh chịu những hậu quả bất lợi mà nhà nước đã dự kiến trong phần chế tài của quy phạm pháp luật. Ngoài ra trong một số trường hợp sự đảm bảo thực hiện của nhà nước còn phụ thuộc vào ý thức tự giác, tự nguyện của các bên tham gia. 2.2.3. Thành phần của quan hệ pháp luật Mỗi quan hệ pháp luật bao gồm 3 thành phần, đó là: Chủ thể của quan hệ pháp luật, nội dung của quan hệ pháp luật (quyền và nghĩa vụ pháp lý của chủ thể) và khách thể của quan hệ pháp luật. Mặt khác, quan hệ pháp luật chỉ hình thành khi có sự xuất hiện của sự kiện pháp lý nhất định. 29 phá sản. Trong đó, năng lực hành vi của tổ chức thực hiện thông qua người đứng đầu cơ quan hoặc người đại diện của tổ chức đó. Pháp nhân bao gồm các cơ quan nhà nước tham gia vào quan hệ pháp luật với tư cách là đại diện cho nhà nước trong quan hệ pháp luật đó và các loại hình doanh nghiệp như công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần…. Những pháp nhân này có thể trở thành chủ thể của các quan hệ pháp luật hành chính, dân sự, kinh tế, thương mại….Các tổ chức không có tư cách pháp nhân cũng tham gia vào quan hệ pháp luật với tư cách là chủ thể của các quan hệ pháp luật như ký kết hợp đồng mua bán hàng hóa, xuất nhập khẩu…. Chủ thể là tổ chức chỉ được phép tham gia vào những quan hệ pháp luật nhất định. Ví dụ: Các cơ quan hành chính không được tham gia hoạt động kinh doanh, chủ thể là tổ chức không thể tham gia quan hệ hôn nhân gia đình, bầu cử, ứng cử.… - Nhà nước cũng được coi là chủ thể của một số quan hệ pháp luật với tư cách là chủ thể đặc biệt, bởi nhà nước chỉ tham gia một số quan hệ pháp luật nhất định, thường là những quan hệ pháp luật quan trọng. Ví dụ, nhà nước là chủ sở hữu duy nhất đối với các tài sản đặc biệt bao gồm đất đai, rừng núi, sông hồ, danh lam thắng cảnh…tức là chỉ có nhà nước mới có thể tham gia vào quan hệ sở hữu này, các chủ thể khác không thể tham gia. Nhà nước cũng là chủ thể duy nhất có quyền ban hành pháp luật quy định các vấn đề về bảo vệ trật tự công cộng (quan hệ pháp luật hình sự, hành chính…); các vấn đề về kinh tế, xã hội (quan hệ pháp luật dân sự, thương mại, tài chính, giáo dục, y tế, môi trường…). 2.2.3.2. Nội dung của quan hệ pháp luật a. Quyền chủ thể Quyền chủ thể trong quan hệ pháp luật là khả năng của các cá nhân, tổ chức tham gia quan hệ đó được quy phạm pháp luật quy định trước và được nhà nước bảo vệ bằng sự cưỡng chế, hay nói cách khác là khả năng của chủ thể xử sự theo cách thức nhất định được pháp luật cho phép. Quyền chủ thể có các đặc điểm: - Khả năng được hành động trong khuôn khổ do quy phạm pháp luật xác định trước. - Khả năng yêu cầu bên kia (chủ thể cùng tham gia quan hệ pháp luật) thực hiện nghĩa vụ của họ hoặc chấm dứt hành vi vi phạm quyền của mình (sự thực hiện có thể là bằng hành động hoặc không hành động). - Khả năng yêu cầu các cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện sự cưỡng chế cần thiết đối với bên kia để họ thực hiện nghĩa vụ trong trường hợp quyền chủ thể của mình bị bên kia vi phạm. b. Nghĩa vụ chủ thể Nghĩa vụ chủ thể là cách xử sự bắt buộc được quy phạm pháp luật xác định trước mà một bên của quan hệ pháp luật đó phải tiến hành nhằm đáp ứng quyền chủ thể của 30 bên kia. Nghĩa vụ pháp lý không phải là khả năng xử sự mà là sự cần thiết phải xử sự, như: Cần phải tiến hành một số hành động nhất định; cần kiềm chế không thực hiện một số hành động nhất định; cần phải chịu trách nhiệm pháp lý khi xử sự không đúng với những quy định của pháp luật (mang tính cưỡng chế). Ví dụ: Nghĩa vụ trả nợ; nghĩa vụ trao trả tài sản, nghĩa vụ yêu thương, chăm sóc, nuôi dưỡng... Nghĩa vụ pháp lý có các đặc điểm sau: - Là sự bắt buộc phải có những xử sự nhất định do quy phạm pháp luật xác định trước; - Cách xử sự này nhằm thực hiện các quyền chủ thể của bên kia; - Trong trường hợp cần thiết nghĩa vụ pháp lý sẽ được đảm bảo thực hiện bằng sự cưỡng chế của Nhà nước. Trong quan hệ pháp luật cụ thể thì quyền và nghĩa vụ luôn luôn thống nhất với nhau, các bên tham gia quan hệ pháp luật luôn mang quyền và nghĩa vụ chủ thể. 2.2.3.3. Khách thể của quan hệ pháp luật Khách thể của quan hệ pháp luật là những giá trị vật chất, tinh thần và giá trị xã hội khác mà cá nhân, tổ chức mong muốn đạt được nhằm thỏa mãn các lợi ích, nhu cầu của mình khi tham gia vào các quan hệ pháp luật và thực hiện quyền chủ thể và nghĩa vụ pháp lý. Khách thể của quan hệ pháp luật có thể là những giá trị vật chất cũng như những giá trị phi vật chất. Chúng ta cũng cần phải phân biệt khách thể của quan hệ pháp luật với đối tượng điều chỉnh của pháp luật là những quan hệ xã hội mà pháp luật tác động đến. 2.2.4. Sự kiện pháp lý 2.2.4.1. Khái niệm sự kiện pháp lý Sự kiện pháp lý là những tình huống, hiện tượng, quá trình xảy ra trong đời sống xã hội phù hợp với những điều kiện hoàn cảnh đã được dự liệu trong các quy phạm pháp luật làm phát sinh, thay đổi và chấm dứt các quan hệ pháp luật. Khi xây dựng pháp luật, yếu tố quan trọng là phải xác định sự kiện pháp lý. Sự thừa nhận hay không thừa nhận ở chủ thể các quyền chủ thể và nghĩa vụ pháp lý cũng phụ thuộc vào vấn đề có tồn tại hay không tồn tại các sự kiện pháp lý. Sự kiện pháp lý thường rất đa dạng và một sự kiện pháp lý có thể dẫn đến nhiều hậu quả pháp lý khác nhau (ví dụ: việc một người chết là sự kiện pháp lý làm chấm dứt quyền chủ thể và nghĩa vụ pháp lý của người đó; nhưng cũng đồng thời làm phát sinh quyền thừa kế của những người thừa kế). 2.2.4.2. Phân loại sự kiện pháp lý 31 - Căn cứ vào hậu quả do sự kiện pháp lý gây ra, sự kiện pháp lý có thể được chia thành: sự kiện pháp lý làm xuất hiện, sự kiện pháp lý làm thay đổi và sự kiện pháp lý làm chấm dứt các quan hệ pháp luật. - Căn cứ vào số lượng, điều kiện hoàn cảnh làm nảy sinh hậu quả pháp lý, sự kiện pháp lý có thể được chia thành: sự kiện pháp lý đơn giản (ví dụ: một người chết); hoặc sự kiện pháp lý phức tạp (ví dụ: một người nghỉ hưu). - Căn cứ vào dấu hiệu ý chí (đây là cách phân loại phổ biến nhất), sự kiện pháp lý có thể được chia thành: sự biến và hành vi. Sự biến là các sự kiện pháp lý xảy ra không phụ thuộc vào ý chí của con người và sự xuất hiện của nó đưa đến những hậu quả pháp lý nhất định cho chủ thể (ví dụ: bão lũ, động đất, sóng thần). Các sự việc này khi xảy ra sẽ làm phát sinh, thay đổi hay chấm dứt các quan hệ pháp luật. Ví dụ: bão lũ làm thiệt hại về người và tài sản sẽ làm phát sinh quan hệ pháp luật về thừa kế, bảo hiểm và làm chấm dứt quan hệ pháp luật về quyền sở hữu tài sản. Hành vi là sự kiện pháp lý phụ thuộc vào ý chí của con người và có hậu quả pháp lý nhất định (ví dụ: hành vi ký kết hợp đồng, đăng ký kết hôn). Các hành vi có thể là hợp pháp hoặc bất hợp pháp. Trong hành vi hợp pháp, sự kiện pháp lý xuất hiện phù hợp với trật tự pháp luật; ngược lại, hành vi vi phạm pháp luật (ví dụ: hành vi tội phạm, hành vi vi phạm hành chính, vi phạm kỷ luật). CÂU HỎI ÔN TẬP, THẢO LUẬN 1. Phân biệt quy phạm xã hội và quy phạm pháp luật? 2. Phân tích cấu trúc của quy phạm pháp luật sau: Người nào xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự của người khác, thì bị phạt cảnh cáo, phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm (Điều 155 Bộ luật hình sự 2015)? 3. Phân biệt năng lực pháp luật và năng lực hành vi của chủ thể quan hệ pháp luật? 4. Trình bày năng lực pháp luật và năng lực hành vi của người bị mất, bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, người sử dụng chất kích thích dẫn đến mất khả năng làm chủ hành vi khi tham gia vào quan hệ pháp luật? 5. Hãy nêu các quan hệ pháp luật phát sinh trong sự kiện pháp lý sau: Khoảng 9 giờ ngày 7/2/2019, bà T.T.B.L. (SN 1979, thôn Khánh Tân, xã Tam Dân) ngồi uống nước tại một quán cà phê ở thôn Kỳ Tân (xã Tam Dân) thì bất ngờ bị đối tượng Nguyễn C, sinh năm 1990 (có biểu hiện đã sử dụng ma túy đá) xông vào dùng chai, ly đập vào đầu khiến bà bất tỉnh, có nhiều thương tích, tỷ lệ thương tật 19%? 34 các dấu hiệu nêu trên. Do vậy có thể khẳng định, mọi vi phạm pháp luật đều là hành vi trái pháp luật, nhưng không phải tất cả các hành vi trái pháp luật đều bị coi là vi phạm pháp luật. chỉ những hành vi trái pháp luật do người có năng lực trách nhiệm pháp lý thực hiện trong trường hợp có lỗi mới bị coi là vi phạm pháp luật. 3.1.3. Cấu thành vi phạm pháp luật Cấu thành vi phạm pháp luật là một sự kiện pháp lý, vi phạm pháp luật được cấu thành bởi: Mặt khách quan, mặt chủ quan, chủ thể và khách thể vi phạm pháp luật. 3.1.3.1. Mặt khách quan của vi phạm pháp luật Mặt khách quan của vi phạm pháp luật là những biểu hiện ra bên ngoài của vi phạm pháp luật. Nó gồm những yếu tố sau: - Hành vi trái pháp luật. Bất kỳ một vi phạm pháp luật nào cũng được cấu thành bởi hành vi trái pháp luật, nghĩa là, nếu trong thực tế không tồn tại hành vi trái pháp luật của cá nhân hoặc hoạt động trái pháp luật của tổ chức cụ thể nào đó thì không có vi phạm pháp luật xảy ra. - Hậu quả (sự thiệt hại) do hành vi trái pháp luật gây ra cho xã hội. Hành vi trái pháp luật ở mức độ khác nhau đều nguy hiểm và gây hại cho xã hội. Tính nguy hiểm của hành vi trái pháp luật thể hiện ở chỗ nó đã hoặc có nguy cơ gây ra những thiệt hại về vật chất, về tinh thần và những thiệt hại khác cho xã hội. Mức độ nguy hiểm của hành vi trái pháp luật được xác định phụ thuộc vào tính chất và mức độ thiệt hại thực tế hoặc nguy cơ gây hại cho xã hội mà hành vi trái pháp luật đó gây ra. - Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật với hậu quả (sự thiệt hại) mà nó gây ra cho xã hội. Mối quan hệ này được thể hiện ở chỗ sự thiệt hại của xã hội là do chính hành vi trái pháp luật đó trực tiếp gây ra, nói cách khác, sự thiệt hại của xã hội xảy ra là hậu quả tất yếu của hành vi trái pháp luật. Nếu giữa hành vi trái pháp luật và sự thiệt hại của xã hội không có mối quan hệ nhân quả thì sự thiệt hại của xã hội không phải do hành vi trái pháp luật đó trực tiếp gây ra mà có thể do những nguyên nhân khác. Ngoài ra trong mặt khách quan của vi phạm pháp luật còn có các yếu tố khác như thời gian, địa điểm và cách thức vi phạm... 3.1.3.2. Mặt chủ quan của vi phạm pháp luật Mặt chủ quan của vi phạm pháp luật là những biểu hiện tâm lý bên trong của chủ thể vi phạm pháp luật. Nó gồm những yếu tố sau: - Lỗi của chủ thể vi phạm pháp luật. Lỗi là trạng thái tâm lý của chủ thể đối với hành vi vi phạm của mình và hậu quả do hành vi đó gây ra. Lỗi thể hiện thái độ tiêu cực của chủ thể đối với xã hội. Phụ thuộc vào mức độ tiêu cực trong thái độ của chủ thể khoa học pháp lý mà lỗi được chia ra thành hai loại: lỗi cố ý và lỗi vô ý. Lỗi cố ý có thể là cố ý trực tiếp hoặc cố ý gián tiếp. Lỗi vô ý có thể là vô ý vì quá tự tin hoặc vô ý do cẩu thả. 35 + Lỗi cố ý trực tiếp: Chủ thể vi phạm nhận thức rõ hành vi của mình là trái pháp luật, thấy trước hậu quả do hành vi trái pháp luật của mình gây ra và mong muốn hậu quả đó xảy ra. + Lỗi cố ý gián tiếp: Chủ thể vi phạm nhận thức rõ hành vi của mình là trái pháp luật, thấy trước hậu quả do hành vi trái pháp luật của mình gây ra, tuy không mong muốn nhưng có ý thức để mặc cho hậu quả đó xảy ra. + Lỗi vô ý do quá tự tin: Chủ thể vi phạm nhận thức rõ hành vi của mình là trái pháp luật, thấy trước hậu quả do hành vi trái pháp luật của mình gây ra nhưng hy vọng, tin tưởng hậu quả đó sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn chặn được. + Lỗi vô ý do cẩu thả: Chủ thể vi phạm không nhận thấy trước hậu quả do hành vi của mình gây ra mặc dù có thể hoặc cần phải nhận thấy trước hậu quả đó. - Động cơ vi phạm: Động cơ được hiểu là cái (động lực) thúc đẩy chủ thể thực hiện hành vi vi phạm pháp luật. Thông thường khi thực hiện vi phạm pháp luật chủ thể thường được thúc đẩy bởi một động cơ nhất định nào đó. Động cơ đó có thể là vụ lợi, trả thù, đê hèn... - Mục đích vi phạm. Mục đích là kết quả cuối cùng mà trong suy nghĩ của mình chủ thể mong muốn đạt được khi thực hiện hành vi vi phạm pháp luật. Mục đích vi phạm của chủ thể cũng thể hiện tính chất nguy hiểm của hành vi. Tuy nhiên cần chú ý là không phải khi nào kết quả mà chủ thể vi phạm đạt được trong thực tế cũng trùng hợp với mục đích mà chủ thể vi phạm mong muốn đạt được. 3.1.3.3. Chủ thể vi phạm pháp luật Chủ thể vi phạm pháp luật có thể là cá nhân hoặc tổ chức có năng lực trách nhiệm pháp lý, nghĩa là theo quy định của pháp luật thì họ phải chịu trách nhiệm đối với hành vi trái pháp luật của mình trong trường hợp đó. Ở mỗi loại vi phạm pháp luật đều có cơ cấu chủ thể riêng, chúng sẽ được xem xét tỉ mỉ ở các ngành khoa học pháp lý cụ thể. 3.1.3.4. Khách thể vi phạm pháp luật Khách thể vi phạm pháp luật là những quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ, nhưng bị hành vi vi phạm pháp luật xâm hại. Những quan hệ xã hội khác nhau thì có tính chất và tầm quan trọng khác nhau, do vậy, tính chất và tầm quan trọng của khách thể cũng là những yếu tố để xác định mức độ nguy hiểm của hành vi vi phạm pháp luật. 3.1.4. Phân loại vi phạm pháp luật Trong đời sống xã hội tồn tại nhiều vi phạm pháp luật. Tùy theo tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội vi phạm pháp luật được chia thành: vi phạm hình sự (tội phạm), vi phạm hành chính, vi phạm dân sự và vi phạm kỷ luật. - Vi phạm hình sự (Tội phạm): là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật Hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm 36 phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm tính mạng, sức khỏe danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền lợi ích hợp pháp khác của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa. - Vi phạm hành chính: là hành vi do cá nhân, tổ chức thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm các quy tắc quản lý nhà nước mà không phải là tội phạm hình sự và theo quy định của pháp luật phải bị xử phạt hành chính. - Vi phạm dân sự: là những hành vi trái pháp luật, có lỗi xâm hại tới những quan hệ tài sản và những quan hệ nhân thân phi tài sản, quan hệ nhân thân có liên quan tới tài sản... - Vi phạm kỷ luật nhà nước: là những hành vi có lỗi trái với những quy chế, quy tắc xác lập trật tự trong nội bộ một cơ quan, xí nghiệp, trường học,... nói cách khác, là không thực hiện đúng kỷ luật lao động, học tập, phục vụ được đề ra trong cơ quan, xí nghiệp, trường học đó... Cần chú ý là chủ thể vi phạm kỷ luật chỉ có thể là cá nhân, tập thể (cán bộ, công nhân, công chức, học sinh...) có quan hệ ràng buộc (phụ thuộc) với cơ quan, xí nghiệp, trường học nào đó. Vi phạm pháp luật là sự kiện pháp lý và là cơ sở để truy cứu trách nhiệm pháp lý. 3.2. Trách nhiệm pháp lý 3.2.1. Khái niệm trách nhiệm pháp lý Trong ngôn ngữ hàng ngày thuật ngữ "trách nhiệm" được dùng theo nhiều nghĩa khác nhau tùy thuộc vào lĩnh vực hoặc ngữ cảnh cụ thể. Trong lĩnh vực pháp lý thuật ngữ trách nhiệm cũng được sử dụng theo hai nghĩa: Theo nghĩa tích cực, trách nhiệm được hiểu là nghĩa vụ (nói đến những điều pháp luật yêu cầu phải làm trong hiện tại và tương lai). Trách nhiệm theo nghĩa thứ hai là phải gánh chịu những hậu quả bất lợi vì đã vi phạm pháp luật. Đó là sự phản ứng, lên án của xã hội đối với những chủ thể vi phạm pháp luật gây hậu quả xấu cho xã hội. Trong khoa học pháp lý, trách nhiệm pháp lý được hiểu “Là một loại quan hệ pháp luật đặc biệt giữa Nhà nước với chủ thể vi phạm pháp luật, trong đó bên vi phạm phải chịu hậu quả bất lợi, những biện pháp cưỡng chế nhà nước được quy định ở chế tài các quy phạm pháp luật”. 3.2.2. Đặc điểm của trách nhiệm pháp lý Trách nhiệm pháp lý có những đặc điểm cơ bản sau: - Cơ sở của trách nhiệm pháp lý là vi phạm pháp luật. Trách nhiệm pháp lý chỉ xuất hiện trong khi thực tế xảy ra vi phạm pháp luật. Có vi phạm pháp luật thì có trách nhiệm pháp lý. Nếu trong thực tế không có vi phạm pháp luật thì không được truy cứu trách nhiệm pháp lý. Trách nhiệm pháp lý chỉ được phép áp dụng đối với chủ thể vi phạm pháp luật. 39 Phần thứ hai MỘT SỐ NGÀNH LUẬT TRONG HỆ THỐNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM Chương 4 LUẬT HIẾN PHÁP VIỆT NAM Mục đích: - Trang bị cho người học những kiến thức cơ bản về ngành Luật Hiến pháp. - Kết thúc chương người học nắm được một số quy định cơ bản về Hiến pháp Việt Nam như các quy định về chế độ của nhà nước; quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân; nguyên tắc và cơ cấu tổ chức bộ máy nhà nước ta hiện nay. 4.1. Khái niệm chung về Luật Hiến pháp 4.1.1. Khái niệm Luật Hiến pháp Luật Hiến pháp là một ngành luật độc lập trong hệ thống pháp luật Việt Nam, bao gồm tổng thể các quy phạm pháp luật do nhà nước ban hành, điều chỉnh các quan hệ xã hội nền tảng nhất của nhà nước như: chế độ chính trị, quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, chế độ kinh tế, chính sách văn hóa, giáo dục khoa học công nghệ và tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước ta hiện nay. 4.1.2. Đối tượng điều chỉnh của Luật Hiến pháp Đối tượng điều chỉnh của ngành luật là tất cả những quan hệ xã hội chịu sự tác động của ngành luật. Mỗi ngành luật đều có đối tượng điều chỉnh đặc trưng của mình. Ngành Luật Hiến pháp có đối tượng điều chỉnh chủ yếu là các quan hệ xã hội quan trọng nhất - đó là những quan hệ xã hội thể hiện mối quan hệ giữa nhà nước và người dân của quốc gia đó. Đó là các quan hệ mang tính chất nền tảng đối với sự tác động của quốc gia. Có thể hiểu Luật Hiến pháp Việt Nam điều chỉnh các quan hệ mang tính chất cơ bản như sau: - Điều chỉnh các quan hệ xã hội cơ bản, nền tảng chế độ chính trị của một nhà nước; - Điều chỉnh các quan hệ xã hội cơ bản trong lĩnh vực kinh tế, văn hóa, giáo dục, khoa học công nghệ,...; - Điều chỉnh quan hệ cơ bản giữa Nhà nước và công dân; - Điều chỉnh nguyên tắc cơ bản, nền tảng về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước; - Điều chỉnh những quan hệ thuộc chủ quyền của một nhà nước, một quốc gia: tên nước, quốc huy, quốc kỳ, quốc ca, thủ đô...; - Điều chỉnh hiệu lực của Hiến pháp, trật tự thay đổi Hiến pháp. 40 4.1.3. Phương pháp điều chỉnh của Luật Hiến pháp Phương pháp điều chỉnh của một ngành luật là cách thức, biện pháp mà ngành luật đó tác động đến những quan hệ xã hội thuộc phạm vi điều chỉnh của nó, nhằm hướng chúng theo một trật tự nhất định phù hợp với ý chí của nhà nước, phù hợp với các quy luật vận động khách quan và những điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của nhà nước trong từng thời kỳ cụ thể. Mỗi ngành luật có phương pháp điều chỉnh khác nhau phụ thuộc vào tính chất của các quan hệ xã hội ngành luật đó điều chỉnh. Quan hệ pháp luật hiến pháp là các quan hệ xã hội mang tính chất cơ bản, nền tảng của nhà nước, đặt nền móng cho sự phát sinh các quan hệ xã hội khác nên phương pháp điều chỉnh của Luật Hiến pháp là phương pháp trao quyền (cho phép); phương pháp bắt buộc và phương pháp cấm đoán. Phương pháp điều chỉnh của Luật Hiến pháp luôn mang tính quyền lực của Nhà nước. 4.2. Một số nội dung cơ bản của Hiến pháp 2013 4.2.1. Chế độ chính trị Chế độ chính trị là một trong những chế định cơ bản của ngành Luật Hiến pháp, bao gồm tổng thể các quy phạm Luật Hiến pháp quy định về chính thể của nhà nước, bản chất của nhà nước, nguyên tắc tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. * Hình thức chính thể Nhà nước Việt Nam: Hình thức chính thể của Nhà nước Việt Nam là chính thể Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Điều 1 Hiến pháp 2013 quy định:“Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một nước độc lập, có chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, bao gồm đất liền, hải đảo, vùng biển và vùng trời”, Điều 2 Hiến pháp 2013 quy định: “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa…”. * Bản chất Nhà nước Việt Nam Bản chất Nhà nước là một vấn đề hết sức quan trọng, nó phản ánh bản chất của một chính thể Nhà nước. Nhà nước Việt Nam mang chính thể Cộng hòa xã hội chủ nghĩa như quy định tại Điều 1 Hiến pháp, do vậy bản chất của Nhà nước Việt Nam được xác định trong Hiến pháp là Nhà nước mang bản chất dân chủ xã hội chủ nghĩa. Nhân dân là chủ thể của quyền lực nhà nước: quyền lực nhà nước xuất phát từ nhân dân, do nhân dân tổ chức ra và vì lợi ích của nhân dân: “1. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; 2. Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức” (Điều 2 Hiến pháp 2013). Nguyên tắc tổ chức thực hiện quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước. Khoản 3 Điều 2 “Quyền lực nhà nước là 41 thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp” Bản chất dân chủ của Nhà nước Việt Nam thể hiện tính nhân dân sâu sắc của nhà nước; xác định rõ ràng và dứt khoát mục đích của nhà nước, Điều 3: “Nhà nước bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân; công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân; thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện” Nhà nước ta là nhà nước thống nhất của các dân tộc cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam quy định tại Điều 5: “1. Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là quốc gia thống nhất của các dân tộc cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam. 2. Các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; nghiêm cấm mọi hành vi kỳ thị, chia rẽ dân tộc. 3. Ngôn ngữ quốc gia là tiếng Việt. Các dân tộc có quyền dùng tiếng nói, chữ viết, giữ gìn bản sắc dân tộc, phát huy phong tục, tập quán, truyền thống và văn hóa tốt đẹp của mình. 4. Nhà nước thực hiện chính sách phát triển toàn diện và tạo điều kiện để các dân tộc thiểu số phát huy nội lực, cùng phát triển với đất nước”. * Hệ thống chính trị của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam Theo quy định của chương I Hiến pháp năm 2013 hệ thống chính trị của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam bao gồm: Đảng cộng sản Việt Nam; Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; Mặt trận tổ quốc Việt Nam; Công đoàn Việt Nam; Hội nông dân Việt Nam; Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh; Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam và Hội cựu chiến binh Việt Nam trong đó Đảng cộng sản Việt Nam là hạt nhân chính trị lãnh đạo và Nhà nước là trụ cột của hệ thống chính trị. Vị trí vai trò của Đảng cộng sản Việt Nam trong hệ thống chính trị Khoản 1 Điều 4 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Đảng Cộng sản Việt Nam - đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của Nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, Nhân dân lao động và của cả dân tộc, lấy chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội” Khoản 2 Điều 4 quy định rõ trách nhiệm của Đảng đối với Nhân dân, trước Nhân dân: “Đảng Cộng sản Việt Nam gắn bó mật thiết với Nhân dân, phục vụ Nhân dân, chịu sự giám sát của Nhân dân, chịu trách nhiệm trước Nhân dân về những quyết định của mình” đồng thời quy định: “Các tổ chức của Đảng và đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật” (khoản 3 Điều 4). Nội dung lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội được thể hiện ở những mặt cơ bản sau: 44 - Điều 14 “1. Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật. 2. Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng”. - Điều 16: Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật: Không ai bị phân biệt đối xử trong đời sống chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội. - Điều 19: Mọi người có quyền sống. Tính mạng con người được pháp luật bảo hộ. Không ai bị tước đoạt tính mạng trái luật. - Điều 20: Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm; không bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân phẩm. - Điều 21: Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân và bí mật gia đình; có quyền bảo vệ danh dự, uy tín của mình. Thông tin về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình được pháp luật bảo đảm an toàn. - Điều 22: Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở. Không ai được tự ý vào chỗ ở của người khác nếu không được người đó đồng ý. - Điều 24: Mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo bình đẳng trước pháp luật. - Điều 30: Mọi người có quyền khiếu nại, tố cáo với cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền về những việc làm trái pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân. - Điều 32: Mọi người có quyền sở hữu về thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất, phần vốn góp trong doanh nghiệp hoặc trong các tổ chức kinh tế khác. - Điều 33: Mọi người có quyền tự do kinh doanh trong những ngành nghề mà pháp luật không cấm. - Điều 38: Mọi người có quyền được bảo vệ, chăm sóc sức khỏe, bình đẳng trong việc sử dụng các dịch vụ y tế và có nghĩa vụ thực hiện các quy định về phòng bệnh, khám bệnh, chữa bệnh. - Điều 40: Mọi người có quyền nghiên cứu khoa học và công nghệ, sáng tạo văn học, nghệ thuật và thụ hưởng lợi ích từ các hoạt động đó. - Điều 41: Mọi người có quyền hưởng thụ và tiếp cận các giá trị văn hoá, tham gia vào đời sống văn hóa, sử dụng các cơ sở văn hóa. - Điều 43: Mọi người có quyền được sống trong môi trường trong lành và có nghĩa vụ bảo vệ môi trường. 45 4.2.2.2. Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân là các quyền và nghĩa vụ được xác định trong Hiến pháp trên các lĩnh vực chính trị, dân sự, kinh tế, xã hội, văn hóa, là cơ sở để thực hiện các quyền và nghĩa vụ cụ thể khác của công dân và cơ sở chủ yếu để xác định địa vị pháp lý của công dân. Thực hiện quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân phải đảm bảo các nguyên tắc cơ bản sau: Quyền công dân không tách rời nghĩa vụ công dân; mọi người có nghĩa vụ tôn trọng quyền của người khác; công dân có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ đối với Nhà nước và xã hội; việc thực hiện quyền con người, quyền công dân không được xâm phạm lợi ích quốc gia, dân tộc, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác (Điều 15). - Các quyền về chính trị + Quyền ứng cử và bầu cử vào đại biểu quốc hội và hội đồng nhân dân các cấp. Đây là quyền cơ bản nhất trong các quyền cơ bản của công dân, thể hiện việc làm chủ nhà nước của nhân dân đã được xác định trong Điều 2, Điều 3 Hiến pháp. Thông qua bầu cử, người dân có thể bằng lá phiếu của mình bầu ra những người đại diện lãnh đạo nhà nước. Nguyên tắc bầu cử ở nước ta hiện nay là phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín. Quyền ứng cử bầu cử của công dân được quy định trong Điều 27: “Công dân đủ mười tám tuổi trở lên có quyền bầu cử và đủ hai mươi mốt tuổi trở lên có quyền ứng cử vào Quốc hội, Hội đồng nhân dân. Việc thực hiện các quyền này do luật định.”. + Quyền tham gia quản lý nhà nước (Điều 28: “Công dân có quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội, tham gia thảo luận và kiến nghị với cơ quan nhà nước về các vấn đề của cơ sở, địa phương và cả nước. Nhà nước tạo điều kiện để công dân tham gia quản lý nhà nước và xã hội; công khai, minh bạch trong việc tiếp nhận, phản hồi ý kiến, kiến nghị của công dân.”.) + Quyền trưng cầu dân ý (Điều 29:Công dân đủ mười tám tuổi trở lên có quyền biểu quyết khi Nhà nước tổ chức trưng cầu ý dân.) - Các quyền về kinh tế, văn hóa, xã hội + Công dân có quyền tự do kinh doanh và sở hữu thu nhập hợp pháp của mình (Điều 32). Theo chính sách của nhà nước hiện nay, nhà nước khuyến khích và tạo điều kiện để cho người dân có thể kinh doanh. + Cá nhân, tổ chức có quyền thành lập doanh nghiệp (Điều 33). Chính sách của nhà nước hiện nay khuyến khích các cá nhân, tổ chức thành lập doanh nghiệp không bị hạn chế quy mô và địa bàn hoạt động cũng như loại hình doanh nghiệp. + Công dân còn có quyền học tập, lao động, nghiên cứu khoa học, nghệ thuật, được bảo hộ quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp (Điều 35) + Công dân có quyền hưởng an sinh xã hội (Điều 36) 46 - Các quyền về tự do dân chủ và tự do cá nhân - Quyền tự do tôn giáo, tự do tín ngưỡng, quyền bất khả xâm phạm về thân thể, chỗ ở, quyền được pháp luật bảo hộ về sức khỏe, tính mạng, danh dự, nhân phẩm, bí mật thư tín, tự do đi lại, cư trú (Điều 20,21,22,23,24); - Quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, lập hội, hội họp, biểu tình theo quy định của pháp luật (Điều 25). - Quyền khiếu nại, tố cáo (Điều 30). Công dân có quyền khiếu nại, quyền tố cáo với cơ quan nhà nước có thẩm quyền về những việc làm trái pháp luật của cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân hoặc bất cứ cá nhân nào. Việc khiếu nại, tố cáo phải được cơ quan nhà nước xem xét và giải quyết trong thời hạn pháp luật quy định. Mọi hành vi xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tập thể và của công dân phải được kịp thời xử lý nghiêm minh. Người bị thiệt hại có quyền được bồi thường về vật chất và phục hồi danh dự. Nghiêm cấm việc trả thù người khiếu nại, tố cáo hoặc lợi dụng quyền khiếu nại, tố cáo để vu khống, vu cáo làm hại người khác. - Các nghĩa vụ cơ bản của công dân Các nghĩa vụ cơ bản của công dân luôn song song với quyền cơ bản. Công dân Việt Nam có những nghĩa vụ cơ bản sau: - Nghĩa vụ bảo vệ Tổ quốc: Bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, giữ vững an ninh quốc gia là sự nghiệp của toàn dân. Nhà nước củng cố và tăng cường nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân nòng cốt là các lực lượng vũ trang nhân dân; phát huy sức mạnh tổng hợp của đất nước để bảo vệ vững chắc Tổ quốc. Cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội và công dân phải làm đầy đủ nhiệm vụ quốc phòng và an ninh do pháp luật quy định. Hiến pháp còn khẳng định, bảo vệ Tổ quốc là nghĩa vụ cao quý nhất của công dân - Nghĩa vụ lao động, học tập, nghiên cứu khoa học. - Công dân có nghĩa vụ tôn trọng và bảo vệ tài sản của Nhà nước và lợi ích công cộng. - Công dân có nghĩa vụ tuân theo Hiến pháp, pháp luật, tham gia bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, giữ gìn bí mật quốc gia, chấp hành những quy tắc sinh hoạt công cộng. - Công dân có nghĩa vụ đóng thuế và lao động công ích theo quy định của pháp luật. - Mọi người có quyền được sống trong môi trường trong lành và có nghĩa vụ bảo vệ môi trường (Điều 43). 4.2.3. Chế độ kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục, khoa học công nghệ và môi trường 4.2.3.1. Chế độ kinh tế Chế độ kinh tế là một trong chế định cơ bản của Hiến pháp, bao gồm tổng thể các quy phạm pháp luật Hiến pháp điều chỉnh các quan hệ xã hội về kinh tế liên quan đến 49 3. Nhà nước ưu tiên phát triển giáo dục ở miền núi, hải đảo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn; ưu tiên sử dụng, phát triển nhân tài; tạo điều kiện để người khuyết tật và người nghèo được học văn hoá và học nghề.". - Chính sách khoa học, công nghệ Nhà nước đánh giá cao vai trò của khoa học công nghệ đối với công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa ở nước ta cũng như mục tiêu đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp. Chính sách khoa học công nghệ của nhà nước ta được ghi nhận tại Điều 62 Hiến pháp: “1. Phát triển khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, giữ vai trò then chốt trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. 2. Nhà nước ưu tiên đầu tư và khuyến khích tổ chức, cá nhân đầu tư nghiên cứu, phát triển, chuyển giao, ứng dụng có hiệu quả thành tựu khoa học và công nghệ; bảo đảm quyền nghiên cứu khoa học và công nghệ; bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ. 3. Nhà nước tạo điều kiện để mọi người tham gia và được thụ hưởng lợi ích từ các hoạt động khoa học và công nghệ.” - Chính sách chăm sóc sức khỏe cho nhân dân Nhà nước, xã hội đầu tư phát triển sự nghiệp bảo vệ, chăm sóc sức khỏe của Nhân dân, thực hiện bảo hiểm y tế toàn dân, có chính sách ưu tiên chăm sóc sức khoẻ cho đồng bào dân tộc thiểu số, đồng bào ở miền núi, hải đảo và vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn. Nhà nước, xã hội và gia đình có trách nhiệm bảo vệ, chăm sóc sức khỏe người mẹ, trẻ em, thực hiện kế hoạch hóa gia đình. (Điều 58). - Chính sách bảo về môi trường Bảo vệ môi trường là một trong những điểm mới của Hiến pháp 2013. Bảo vệ môi trường là nhiệm vụ cơ bản của nhà nước và nhân dân trong công cuộc công nhiệp hóa đất nước hiện nay. Vấn đề môi trường là vấn đặt ra với mọi Quốc gia trên thế giới, nhất là những nước đang phát triển như Việt Nam. Đưa vấn đề bảo vệ môi trường vào Hiến pháp từ đó góp phần đề cao giá trị của môi trường, tầm quan trọng của môi trường từ đó tạo tiền đề để xây dựng và hoàn thiện pháp luật bảo vệ môi trường. 4.2.4. Bộ máy nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam 4.2.4.1. Khái niệm bộ máy nhà nước Bộ máy nhà nước là tổng thể các cơ quan nhà nước được thành lập, hoạt động theo quy định của pháp luật, hợp thành một hệ thống nhằm thực hiện các chức năng và nhiệm vụ của nhà nước. Bộ máy nhà nước Việt Nam hiện nay được xây dựng trên cơ sở tính nhân dân sâu sắc, đảm bảo quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Nếu như các bộ máy nhà nước tư 50 bản được xây dựng theo cách phân quyền (phân chia quyền lực giữa ba nhóm cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp) thì bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa nói chung và nhà nước Việt Nam nói riêng được xây dựng mang tính chất tập trung quyền lực. Quyền lực thuộc về nhân dân thông qua cơ quan quyền lực cao nhất ở trung ương do dân bầu ra là Quốc hội. Bộ máy nhà nước Việt Nam giữ vai trò trung tâm trong hệ thống chính trị nước ta hiện nay, giữ vai trò quan trọng trong quá trình xây dựng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Có thể hiểu: Bộ máy nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là tập hợp các cơ quan nhà nước từ trung ương đến địa phương được tổ chức và hoạt động theo những nguyên tắc chung thống nhất, tạo thành một cơ chế đồng bộ để thực hiện các chức năng và nhiệm vụ của nhà nước. 4.2.4.2. Đặc điểm của bộ máy nhà nước - Quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, thông qua hệ thống cơ quan nhà nước do nhân dân trực tiếp và gián tiếp bầu ra, cơ quan khác đề ra đời từ cơ quan quyền lực và phải chịu trách nhiệm trước cơ quan này. - Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. - Bộ máy nhà nước được phân chia thành hai cấp là trung ương và địa phương. - Bộ máy nhà nước ta vừa là tổ chức hành chính, vừa là tổ chức quản lý văn hóa - xã hội. 4.2.4.3. Các nguyên tắc tổ chức bộ máy nhà nước Đây là những nguyên tắc nền tảng đối với việc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước ta hiện nay. Bộ máy nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được xây dựng trên cơ sở năm nguyên tắc cơ bản. Thứ nhất, nguyên tắc quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Theo Điều 2 Hiến pháp: “Quyền lực nhà nước thuộc về công dân”, Điều 28 Hiến pháp “Công dân có quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội”, có hai hình thức quản lý nhà nước là quản lý trực tiếp và quản lý gián tiếp. Quản lý trực tiếp là việc công dân bỏ phiếu để bầu ra đại biểu quốc hội và hội đồng nhân dân các cấp; làm việc trong các cơ quan của bộ máy nhà nước; tham gia thảo luận các vấn đề chung của đất nước và địa phương, giám sát hoạt động của các đại biểu do mình bầu, của nhân viên và của các cơ quan nhà nước. Tham gia gián tiếp thông qua các tổ chức chính trị. Hai hình thức này đã góp phần phát huy sức lực và trí tuệ của nhân dân góp phần ngăn chặn tệ quan liêu, cửa quyền trong bộ máy nhà nước. Thứ hai, nguyên tắc Đảng cộng sản lãnh đạo đối với nhà nước và xã hội Sự lãnh đạo của Đảng giữ vai trò quyết định đối với việc xác định phương hướng hoạt động của nhà nước xã hội chủ nghĩa, là điều kiện quyết định để nâng cao hiệu lực 51 quản lý nhà nước. Sự lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước là sự lãnh đạo chính trị thông qua việc đề ra chủ trương, đường lối, phương hướng lớn; những vấn đề quan trọng về tổ chức bộ máy nhà nước và thông qua nhà nước chúng được thể chế hóa thành pháp luật. Kiểm điểm thực hiện, công tác giáo dục, thuyết phục và sự gương mẫu của Đảng viên. Mọi tổ chức Đảng đều phải hoạt động trong khuôn khổ pháp luật quy định và đúng pháp luật. Phương pháp lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước thể hiện ở việc: - Xây dựng cương lĩnh, chủ trương, chính sách, đường lối. - Đào tạo, bồi dưỡng những Đảng viên ưu tú có năng lực, phẩm chất để giới thiệu vào các cơ quan nhà nước. - Đề cao đạo đức, gương mẫu của Đảng viên. - Kiểm tra thường xuyên hoạt động của các tổ chức Đảng đối với việc chấp hành nội quy của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Thứ ba, nguyên tắc tập trung dân chủ Nguyên tắc tập trung dân chủ đề cập đến mối quan hệ trong bộ máy nhà nước giữa cấp trung ương và cấp địa phương, giữa cơ quan nhà nước cấp trên và cơ quan nhà nước cấp dưới. Cơ quan nhà nước cấp dưới phải phục tùng cơ quan nhà nước cấp trên nhưng được phát huy tính chủ động sáng tạo, quyền lực mang tính tập trung nhưng vẫn dựa trên tính dân chủ trong từng cấp, cấp trên chỉ đưa ra chỉ đạo và thực hiện việc quản lý giám sát chứ không can thiệp vào công việc và hoạt động của cấp dưới. Để thực hiện được nguyên tắc tập trung dân chủ yêu cầu phải thực hiện thông qua việc kiểm tra giám sát thường xuyên của cấp trên với cấp dưới thông qua việc quản lý các thông tin, báo cáo. Các cơ quan cấp trên cũng không được cửa quyền quan liêu, tránh tình trạng vô tổ chức, vô chính phủ. Thứ tư, nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa đặt yêu cầu pháp luật phải giữ vai trò cơ bản và quan trọng đối với việc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước. Việc xây dựng bộ máy nhà nước phải tuân thủ các quy định của pháp luật từ việc bầu cử, bổ nhiệm, bãi miễn nhiệm cũng như hoạt động của từng cơ quan trong bộ máy nhà nước cũng như mối liên hệ giữa các cơ quan. Để làm được điều này cần phải hoàn thiện hệ thống pháp luật phù hợp với nhu cầu của sự phát triển xã hội, trên cơ sở đó yêu cầu các cơ quan nhà nước phải thực hiện một cách triệt để và tự giác. Song song với đó là việc tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện theo luật của các cơ quan, cán bộ trong bộ máy nhà nước; xử lý nghiêm minh những hành vi vi phạm pháp luật, pháp chế. Thứ năm, nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất nhưng có sự phân chia và phối hợp giữa các cơ quan trong bộ máy nhà nước. 54 Chương 5 LUẬT HÀNH CHÍNH VIỆT NAM Mục đích: - Trang bị cho người học những kiến thức về ngành Luật Hành chính - Kết thúc chương người học nắm được đối tượng, phương pháp điều chỉnh của Luật Hành chính, đặc điểm các cơ quan hành chính nhà nước; nhận biết được hành vi phạm hành chính và nắm được các quy định pháp luật về xử lý vi phạm hành chính. 5.1. Khái niệm chung về Luật Hành chính 5.1.1. Khái niệm Luật Hành chính Luật Hành chính là một ngành luật trong hệ thống pháp luật của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam bao gồm tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình tổ chức và thực hiện hoạt động chấp hành và điều hành của các cơ quan quản lý nhà nước đối với các lĩnh vực của đời sống xã hội. 5.1.2. Đối tượng điều chỉnh của Luật Hành chính Cũng như các ngành luật khác trong hệ thống pháp luật, Luật Hành chính có đối tượng điều chỉnh và phương pháp điều chỉnh, tuy nhiên, do Luật Hành chính là ngành luật của quản lý nhà nước nên đối tượng điều chỉnh của nó là các quan hệ xã hội hình thành trong lĩnh vực quản lý hành chính (chấp hành và điều hành). Các quan hệ quản lý hành chính nhà nước có bốn nhóm quan hệ: - Nhóm 1. Quan hệ phát sinh trong quá trình hoạt động chấp hành, điều hành của các cơ quan nhà nước. - Nhóm 2. Quan hệ chấp hành, điều hành phát sinh trong hoạt động xây dựng, tổ chức công tác nội bộ một cơ quan quản lý nhà nước. - Nhóm 3. Quan hệ chấp hành và điều hành phát sinh trong hoạt động của các cơ quan quyền lực, cơ quan kiểm sát, cơ quan xét xử. - Nhóm 4. Quan hệ chấp hành, điều hành của các cơ quan nhà nước không lệ thuộc vào hệ thống cơ quan quản lý và hoạt động của các tổ chức xã hội khi các chủ thể này được nhà nước trao quyền thực hiện một số chức năng quản lý nhà nước cụ thể. 5.1.3. Phương pháp điều chỉnh của Luật Hành chính Để điều chỉnh được các nhóm quan hệ nói trên, nhà nước sử dụng các biện pháp cưỡng chế bảo đảm các quyết định của mình được thực hiện. Tính chất quyền lực phục tùng như vậy là yêu cầu tất yếu của hoạt động quản lý, vì vậy mà phương pháp điều chỉnh chủ yếu của luật hành chính là phương pháp mệnh lệnh (thuyết phục và cưỡng chế) và phương pháp phục tùng. Các phương pháp này phù hợp với tính chất chấp hành và điều hành của hoạt động quản lý hành chính nhà nước. 55 5.2. Cơ quan hành chính nhà nước 5.2.1. Khái niệm và đặc điểm của cơ quan hành chính Cơ quan hành chính là một loại cơ quan trong bộ máy nhà nước hoạt động thường xuyên, liên tục và có vị trí tương đối ổn định; là cầu nối trực tiếp giữa đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước vào cuộc sống được thành lập để thực hiện chức năng quản lý nhà nước, vì vậy cơ quan hành chính là chủ thể cơ bản của luật hành chính. Cơ quan hành chính là một loại cơ quan trong bộ máy nhà nước chuyên thực hiện chức năng quản lý nhà nước trên các lĩnh vực của đời sống xã hội và có một hệ thống các đơn vị trực thuộc. Với tính chất đó, cơ quan hành chính có các đặc điểm chung giống như các cơ quan trong bộ máy nhà nước và nó còn mang các đặc điểm cơ bản đặc thù của cơ quan quản lý, đó là: - Cơ quan hành chính nhà nước là cơ quan chấp hành của cơ quan quyền lực, thực hiện hoạt động chấp hành - điều hành (đó là những hoạt động được tiến hành trên cơ sở Luật và để thi hành Luật) nhằm thực hiện chức năng quản lý hành chính nhà nước. Như vậy, hoạt động chấp hành – điều hành hay còn gọi là hoạt động quản lý hành chính nhà nước là phương diện hoạt động chủ yếu của cơ quan hành chính nhà nước. Các cơ quan nhà nước khác cũng thực hiện những hoạt động quản lý hành chính nhà nước nhưng đó không phải là phương diện hoạt động chủ yếu mà chỉ là hoạt động được thực hiện nhằm hướng tới hoàn thành chức năng cơ bản của cơ quan nhà nước đó như: Chức năng lập pháp của Quốc hội, chức năng xét xử của Tòa án nhân dân, chức năng kiểm sát của Viện kiểm sát nhân dân. Chỉ có cơ quan hành chính nhà nước mới thực hiện hoạt động quản lý hành chính nhà nước trên tất cả các lĩnh vực như kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, giáo dục… Việc thực hiện hoạt động quản lí hành chính nhà nước là nhằm hoàn thành chức năng quản lý hành chính nhà nước. - Hệ thống các cơ quan hành chính nhà nước được thành lập từ Trung ương đến địa phương đứng đầu là Chính phủ tạo thành một chỉnh thể thống nhất, được tổ chức theo hệ thống thứ bậc, có mối quan hệ mật thiết phụ thuộc nhau về tổ chức và hoạt động nhằm thực thi quyền quản lý hành chính nhà nước. - Thẩm quyền của các cơ quan hành chính nhà nước được pháp luật quy định trên cơ sở lãnh thổ, ngành hoặc lĩnh vực chuyên môn mang tính tổng hợp. Đó là những quyền và nghĩa vụ pháp lý hành chính chỉ giới hạn trong phạm vi hoạt động chấp hành – điều hành. - Các cơ quan hành chính nhà nước đều trực tiếp hay gián tiếp trực thuộc cơ quan quyền lực nhà nước cùng cấp, chịu sự giám sát và báo cáo công tác trước cơ quan quyền lực nhà nước. - Các cơ quan hành chính nhà nước có hệ thống đơn vị cơ sở trực thuộc. Các đơn vị cơ sở của bộ máy hành chính nhà nước là nơi trực tiếp tạo ra của cải vật chất và tinh 56 thần cho xã hội. Hầu hết các cơ quan có chức năng quản lý hành chính đều có các đơn vị cơ sở trực thuộc từ Trung ương đến địa phương. Ví dụ: Các trường đại học trực thuộc Bộ Giáo dục và Đào tạo, các đơn vị quân đội, công an trực thuộc Bộ Quốc phòng, Bộ Công an…. 5.2.2. Phân loại cơ quan hành chính Cơ quan hành chính nhà nước được phân thành nhiều loại khác nhau dựa trên các tiêu chí như cơ sở pháp lý của việc thành lập, địa giới hoạt động, phạm vi thẩm quyền, chế độ lãnh đạo … - Theo cơ sở pháp lý của việc thành lập: Chính phủ với tư cách là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất. Uỷ ban Nhân dân các địa phương là các cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương. - Căn cứ vào địa giới hoạt động: Các cơ quan hành chính nhà nước trung ương gồm Chính phủ, các Bộ, các cơ quan ngang Bộ quản lý nhà nước về ngành hay lĩnh vực công tác. Hoạt động quản lý của các cơ quan này bao trùm trong phạm vi toàn quốc. Các cơ quan hành chính nhà nước địa phương gồm Uỷ ban nhân dân các cấp và các sở, phòng, ban thuộc Uỷ ban nhân dân, hoạt động quản lý trong phạm vi lãnh thổ địa phương. - Căn cứ theo phạm vi thẩm quyền: Cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền chung gồm Chính phủ và Uỷ ban nhân dân các cấp. Cơ quan hành chính có thẩm quyền riêng, còn gọi là thẩm quyền chuyên môn gồm các Bộ, cơ quan ngang bộ, các sở, phòng, ban trực thuộc Ủy ban nhân dân. - Căn cứ theo chế độ lãnh đạo: Chế độ lãnh đạo tập thể gồm Chính phủ và Uỷ ban nhân dân các cấp. Chế độ lãnh đạo cá nhân gồm các Bộ, cơ quan ngang bộ, các sở, phòng, ban trực thuộc Ủy ban nhân dân. 5.3. Vi phạm pháp luật hành chính, trách nhiệm pháp lý hành chính 5.3.1. Vi phạm hành chính * Khái niệm: Vi phạm hành chính là hành vi của cá nhân hoặc tổ chức cố ý hoặc vô ý xâm phạm các quy tắc quản lý nhà nước mà chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự và theo quy định của pháp luật phải bị xử phạt hành chính. * Đặc điểm: - Vi phạm hành chính là hành vi do cá nhân hay tổ chức thực hiện trái pháp luật xâm phạm các quy tắc quản lý nhà nước. Hành vi trái pháp luật hành chính được thể hiện dưới dạng hành động (chủ thể thực hiện những hành vi bị pháp luật hành chính ngăn cấm) hoặc không hành động (chủ thể không thực hiện những hành vi mà pháp luật hành chính bắt buộc phải thực hiện). 59 Người thuộc lực lượng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân vi phạm hành chính thì bị xử lý như đối với công dân khác; trường hợp cần áp dụng hình thức phạt tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề hoặc đình chỉ hoạt động có thời hạn liên quan đến quốc phòng, an ninh thì người xử phạt đề nghị cơ quan, đơn vị Quân đội nhân dân, Công an nhân dân có thẩm quyền xử lý; + Tổ chức bị xử phạt vi phạm hành chính về mọi vi phạm hành chính do mình gây ra. + Cá nhân, tổ chức nước ngoài vi phạm hành chính trong phạm vi lãnh thổ, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam; trên tàu bay mang quốc tịch Việt Nam, tàu biển mang cờ quốc tịch Việt Nam thì bị xử phạt vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật Việt Nam, trừ trường hợp điều ước quốc tế mà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định khác. 5.3.2.2. Xử lý vi phạm hành chính (Luật xử lý vi phạm hành chính sửa đổi năm 2020 được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIV, kỳ họp thứ 10 thông qua ngày 13/11/2020, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/01/2022.) a. Thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính - Chủ tịch UBND các cấp; - Chiến sĩ cảnh sát nhân dân; bộ đội biên phòng đang thi hành nhiệm vụ; nhân viên thuế đang thi hành nhiệm vụ; - Kiểm sát viên, thanh tra viên; thẩm phán, đội trưởng đội thi hành án, quản lý thị trường…. b. Phạm vi xử lý vi phạm hành chính - Chủ tịch UBND: Xử lý các vi phạm ở địa phương. - Cơ quan nhà nước chuyên ngành: Xử lý vi phạm do cơ quan nhà nước đó quản lý. - Chiến sĩ công an nhân dân, bộ đội biên phòng, cảnh sát biển đang thi hành công vụ. - Thủ trưởng trực tiếp của nhân viên hải quan. - Nhân viên kiểm lâm, nhân viên thuế vụ, kiểm sát viên thị trường, thanh tra viên chuyên ngành, đang thi hành công vụ. - Giám đốc cảng vụ hải cảng, giám đốc cảng vụ nội địa, giám đốc cảng vụ hàng không. - Thẩm phán được phân công chủ tọa phiên tòa. - Chấp hành viên thi hành án dân sự đang thi hành công vụ. - Đội trưởng đội thi hành án dân sự, trưởng phòng thi hành án dân sự cấp tỉnh, trưởng phòng thi hành án quân khu và cấp tương đương. c. Nguyên tắc xử lý vi phạm hành chính (Điều 3 – Luật xử lý vi phạm hành chính 2012) * Nguyên tắc xử phạt vi phạm hành chính bao gồm: 60 - Mọi vi phạm hành chính phải được phát hiện, ngăn chặn kịp thời và phải bị xử lý nghiêm minh, mọi hậu quả do vi phạm hành chính gây ra phải được khắc phục theo đúng quy định của pháp luật; - Việc xử phạt vi phạm hành chính được tiến hành nhanh chóng, công khai, khách quan, đúng thẩm quyền, bảo đảm công bằng, đúng quy định của pháp luật; - Việc xử phạt vi phạm hành chính phải căn cứ vào tính chất, mức độ, hậu quả vi phạm, đối tượng vi phạm và tình tiết giảm nhẹ, tình tiết tăng nặng; - Chỉ xử phạt vi phạm hành chính khi có hành vi vi phạm hành chính do pháp luật quy định. Một hành vi vi phạm hành chính chỉ bị xử phạt một lần, nhiều người cùng thực hiện một hành vi vi phạm hành chính thì mỗi người vi phạm đều bị xử phạt về hành vi vi phạm hành chính đó. Một người thực hiện nhiều hành vi vi phạm hành chính hoặc vi phạm hành chính nhiều lần thì bị xử phạt về từng hành vi vi phạm, trừ trường hợp hành vi vi phạm hành chính nhiều lần được Chính phủ quy định là tình tiết tăng nặng. - Người có thẩm quyền xử phạt có trách nhiệm chứng minh vi phạm hành chính. Cá nhân, tổ chức bị xử phạt có quyền tự mình hoặc thông qua người đại diện hợp pháp chứng minh mình không vi phạm hành chính; - Đối với cùng một hành vi vi phạm hành chính thì mức phạt tiền đối với tổ chức bằng 02 lần mức phạt tiền đối với cá nhân. * Nguyên tắc áp dụng các biện pháp xử lý hành chính bao gồm: - Cá nhân chỉ bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính nếu thuộc một trong các đối tượng quy định tại các điều 90, 92, 94 và 96 của Luật này; - Việc áp dụng các biện pháp xử lý hành chính phải được tiến hành theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều này; - Việc quyết định thời hạn áp dụng biện pháp xử lý hành chính phải căn cứ vào tính chất, mức độ, hậu quả vi phạm, nhân thân người vi phạm và tình tiết giảm nhẹ, tình tiết tăng nặng; - Người có thẩm quyền áp dụng biện pháp xử lý hành chính có trách nhiệm chứng minh vi phạm hành chính. Cá nhân bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính có quyền tự mình hoặc thông qua người đại diện hợp pháp chứng minh mình không vi phạm hành chính. d. Các hình thức xử lý vi phạm hành chính (Điều 21 - Luật xử lý vi phạm hành chính 2012) * Hình thức xử lý: + Cảnh cáo được áp dụng đối với tổ chức, cá nhân vi phạm hành chính nhỏ, lần đầu, có tình tiết giảm nhẹ, hoặc đối với mọi hành vi vi phạm hành chính do người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi. 61 + Phạt tiền được áp dụng đối với các tổ chức, cá nhân vi phạm hành chính và không thuộc trường hợp bị xử phạt cảnh cáo. Mức phạt tiền trong xử phạt vi phạm hành chính, tùy theo tính chất và mức độ vi phạm, tối thiểu là 5.000 đồng và tối đa là 500.000.000 đồng. Tiền xử phạt vi phạm hành chính được đưa vào ngân sách nhà nước. + Tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề được áp dụng có thời hạn hoặc không có thời hạn đối với các tổ chức, cá nhân vi phạm nghiêm trọng quy tắc sử dụng giấy phép. + Tịch thu tang vật, phương tiện được dùng để vi phạm hành chính. Người có thẩm quyền xử phạt quyết định biện pháp tịch thu để sung vào công quỹ nhà nước các tài sản, vật dụng, hàng hóa, tiền bạc… dùng để thực hiện vi phạm hành chính hoặc do vi phạm kèm theo hình thức mà có. + Trục xuất được áp dụng với người nước ngoài có hành vi vi phạm pháp luật Việt Nam, buộc họ phải rời khỏi lãnh thổ Việt Nam. Trục xuất có thể áp dụng như một biện pháp xử phạt chính hoặc như một biện pháp xử phạt bổ sung khi được áp dụng kèm theo hình thức phạt chính khác. Đi kèm theo các hình thức xử phạt hành chính, đối với cá nhân tổ chức vi phạm hành chính, cơ quan có thẩm quyền xử phạt hành chính còn có thể áp dụng một hoặc nhiều biện pháp khắc phục hậu quả như sau: - Buộc khôi phục lại tình trạng ban đầu đã bị thay đổi do vi phạm hành chính gây ra hoặc buộc tháo dỡ công trình xây dựng trái phép. - Buộc thực hiện các biện pháp khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường sống, lây lan dịch bệnh do vi phạm hành chính gây ra. - Buộc đưa ra khỏi lãnh thổ Việt Nam hoặc buộc tái xuất hàng hóa, vật phẩm, phương tiện vi phạm. - Buộc thiêu hủy vật phẩm gây hại cho sức khỏe con người, vật nuôi, cây trồng và văn hóa phẩm độc hại. - Các biện pháp khác do Chính phủ quy định. * Các biện pháp xử lý hành chính khác: Ngoài các hình thức xử lý vi phạm hành chính nêu trên, việc xử lý vi phạm hành chính còn bao gồm các biện pháp xử lý hành chính khác, chỉ áp dụng đối với các cá nhân: - Giáo dục tại xã, phường, thị trấn; - Đưa vào trường giáo dưỡng; - Đưa vào cơ sở giáo dục; - Đưa vào cơ sở chữa bệnh; - Quản chế hành chính. Các biện pháp xử lý hành chính nói trên nhằm mục đích giáo dục ý thức chấp hành pháp luật của đối tượng vi phạm pháp luật về an ninh, trật tự, an toàn xã hội mà 64 Là phương pháp quyền uy. Đó là phương pháp sử dụng quyền lực nhà nước trong việc điều chỉnh các quan hệ pháp Luật Hình sự giữa nhà nước và người phạm tội, pháp nhân thương mại phạm tội. Nhà nước có quyền tối cao cho việc định đoạt số phận của người phạm tội, pháp nhân thương mại phạm tội buộc họ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm mà họ đã gây ra. Trách nhiệm hình sự mà người phạm tội, pháp nhân thương mại phạm tội đã gây ra là trách nhiệm thuộc về cá nhân người phạm tội, pháp nhân thương mại phạm tội phải do chính họ gánh chịu một cách trực tiếp. 6.1.4. Nguyên tắc và vai trò của Luật Hình sự Các nguyên tắc cơ bản của Luật Hình sự Việt Nam là các tư tưởng chỉ đạo, là cơ sở cho hoạt động xây dựng và áp dụng pháp luật hình sự. Cụ thể là: - Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa: nguyên tắc này thể hiện thông qua việc chỉ có pháp luật hình sự mới quy định hành vi nào là tội phạm. Cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải tuyệt đối tuân thủ quy định này của pháp luật. - Nguyên tắc dân chủ xã hội chủ nghĩa: nguyên tắc này thể hiện thông qua việc tôn trọng và bảo vệ các quyền tự do dân chủ của công dân. Mọi công dân đều có quyền ngang nhau, không có sự phân biệt đối xử; phải tham gia tích cực vào việc xây dựng và áp dụng pháp luật hình sự; đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm. - Nguyên tắc nhân đạo xã hội chủ nghĩa: nguyên tắc này thể hiện thông qua việc áp dụng hình phạt với người phạm tội, chủ yếu nhằm mục đích giáo dục và cải tạo họ trở thành công dân có ích cho xã hội (ví dụ: quy định khoan hồng, miễn trách nhiệm hình sự, hình phạt, cho hưởng án treo...). - Nguyên tắc kết hợp hài hòa chủ nghĩa yêu nước và tinh thần quốc tế thể hiện thông qua việc quy định trong Bộ luật Hình sự như: các tội phá hoại hòa bình, chống loài người và tội phạm chiến tranh. - Vai trò của Luật Hình sự thể hiện thông qua việc bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa; bảo vệ quyền bình đẳng giữa đồng bào các dân tộc; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân; bảo vệ trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa; chống mọi hành vi phạm tội; giáo dục ý thức tuân theo pháp luật; đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm. 6.2. Tội phạm 6.2.1. Khái niệm tội phạm Điều 8 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam quy định tội phạm như sau: “Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật Hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các 65 quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa mà theo quy định của bộ luật này phải bị xử lý hình sự”. Những hành vi tuy có dấu hiệu của tội phạm nhưng tính chất nguy hiểm cho xã hội không đáng kể thì không phải là tội phạm và được xử lý bằng các biện pháp khác. Khái niệm tội phạm trên đây là khái niệm có tính khoa học thể hiện tập trung nhất quan điểm của Nhà nước ta về tội phạm. Khái niệm này không những là cơ sở thống nhất cho việc xác định những loại tội phạm cụ thể trong phần các tội phạm của Bộ luật hình sự mà còn là cơ sở cho việc nhận thức và áp dụng đúng đắn những điều luật quy định về từng tội phạm cụ thể. Từ khái niệm đầy đủ này có thể đưa ra khái niệm về tội phạm một cách khái quát như sau: Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội, có lỗi, trái pháp luật hình sự và phải chịu hình phạt. 6.2.2. Những dấu hiệu (đặc điểm) cơ bản của tội phạm Theo Luật Hình sự Việt Nam, hành vi bị coi là tội phạm được phân biệt với những hành vi không phải là tội phạm qua bốn dấu hiệu. Đó là: tính nguy hiểm cho xã hội, tính có lỗi, tính trái pháp luật hình sự và tính chịu hình phạt. - Tính nguy hiểm cho xã hội Tính nguy hiểm cho xã hội là dấu hiệu cơ bản, quan trọng nhất, quyết định những dấu hiệu khác của tội phạm. Hành vi nào đó sở dĩ bị quy định trong Luật Hình sự là tội phạm và phải chịu trách nhiệm hình sự vì nó có tính nguy hiểm cho xã hội. Tính nguy hiểm cho xã hội là thuộc tính khách quan, là dấu hiệu vật chất của tội phạm. Hành vi nguy hiểm cho xã hội được coi là tội phạm phải là hành vi gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại đáng kể cho các quan hệ xã hội được Luật Hình sự bảo vệ. Đó là những quan hệ xã hội có tính tương đối quan trọng hoặc quan trọng và khi bị xâm hại có gây ra những thiệt hại hoặc những ảnh hưởng đáng kể cho điều kiện tồn tại và phát triển của chế độ xã hội chủ nghĩa. Tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm không những là căn cứ để phân biệt hành vi là tội phạm với những hành vi vi phạm khác mà còn là cơ sở để đánh giá mức độ nghiêm trọng nhiều hay ít của hành vi phạm tội và qua đó giúp cho việc cá thể hóa trách nhiệm hình sự được chính xác. - Tính có lỗi Lỗi là thái độ chủ quan của con người đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội của mình và đối với hậu quả của hành vi đó thể hiện dưới dạng cố ý hoặc vô ý. Người bị coi là có lỗi khi người đó thực hiện hành vi gây thiệt hại cho xã hội nếu hành vi ấy là kết quả của sự tự lựa chọn và quyết định của chủ thể trong khi có đủ điều kiện quyết định thực hiện xử sự khác phù hợp với đòi hỏi của xã hội. Trong Bộ luật hình sự Việt Nam, tính có lỗi được nêu trong định nghĩa về tội phạm là dấu hiệu độc lập với tính nguy hiểm cho xã hội nhưng không phải để tách tính có 66 lỗi ra khỏi tính nguy hiểm cho xã hội mà để nhấn mạnh tính chất quan trọng của tính có lỗi. Luật Hình sự Việt Nam không chấp nhận việc quy tội khách quan, nghĩa là quy TNHS cho người chỉ căn cứ vào việc người đó đã thực hiện hành vi gây thiệt hại cho xã hội mà không căn cứ vào lỗi của họ. Chúng ta áp dụng hình phạt không phải để trừng trị hành vi mà để trừng trị người đã thực hiện tội phạm nhằm giáo dục họ. Mục đích này chỉ có thể đạt được nếu hình phạt được áp dụng cho người có lỗi. Đối với người không có lỗi, hình phạt không thể phát huy được tác dụng giáo dục. - Tính trái pháp luật hình sự Ngay tại Điều 2 của Bộ luật Hình sự đã khẳng định: "Chỉ người nào phạm một tội được Bộ luật Hình sự quy định mới phải chịu trách nhiệm hình sự"; “Chỉ pháp nhân thương mại nào phạm một tội đã được quy định tại Điều 76 bộ luật hình sự mới phải chịu trách nhiệm hình sự”. Có nghĩa là hành vi nguy hiểm cho xã hội chỉ được coi là tội phạm nếu nó được quy định trong Bộ luật Hình sự. Khoản 2 Điều 7 của Bộ luật cũng quy định: "Điều luật quy định một tội phạm mới, một hình phạt nặng hơn, một tình tiết tăng nặng mới hoặc hạn chế phạm vi áp dụng án treo, miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt, giảm hình phạt, xóa án tích và các quy định khác không có lợi cho người phạm tội, thì không được áp dụng đối với hành vi phạm tội thực hiện trước khi điều luật đó có hiệu lực thi hành". Việc quy định tính trái pháp luật hình sự là dấu hiệu của tội phạm không những là cơ sở đảm bảo cho đường lối đấu tranh phòng chống tội phạm được thống nhất, đảm bảo cho quyền dân chủ của công dân khỏi bị xâm phạm bởi hành vi xử lý tùy tiện mà còn là động lực thúc đẩy cơ quan lập pháp kịp thời bổ sung, sửa đổi luật theo sát sự thay đổi tình hình chính trị, kinh tế, xã hội. Luật Hình sự Việt Nam coi tính trái pháp luật hình sự là dấu hiệu của tội phạm nhưng không phải là dấu hiệu duy nhất mà chỉ là dấu hiệu biểu hiện mặt hình thức pháp lý của dấu hiệu tính nguy hiểm cho xã hội - dấu hiệu cơ bản của tội phạm. Hai dấu hiệu tính nguy hiểm cho xã hội và tính trái pháp luật hình sự có quan hệ biện chứng của mối quan hệ giữa nội dung và hình thức. Tính trái pháp luật tuy có tính độc lập tương đối nhưng vẫn là dấu hiệu được xác định bởi dấu hiệu tính nguy hiểm cho xã hội. - Tính phải chịu hình phạt Tính phải chịu hình phạt có nghĩa là bất cứ một hành vi phạm tội nào cũng đều bị đe dọa phải chịu một hình phạt. Chỉ có hành vi phạm tội mới phải chịu hình phạt, tội càng nghiêm trọng thì hình phạt áp dụng càng nghiêm khắc. Trong những trường hợp được miễn trách nhiệm hình sự, được miễn hình phạt hoặc được miễn chấp hành hình phạt, người phạm tội tuy không phải chịu hình phạt nhưng không có nghĩa tội phạm mà họ thực hiện không có tính chịu hình phạt mà trái lại, khả năng đe dọa phải chịu hình phạt vẫn có. Người phạm tội không phải chịu hình phạt vì đã được miễn vì những lý do khác nhau. 69 2. Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại một số điều sau đây: Điều 123, 134, 141, 142, 143, 144,150,151,168, 169, 170,171,173, 178, 248, 249, 250, 251, 252, 265, 266, 286, 287, 289, 290, 299, 303, 304 Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Theo đó người có độ tuổi từ đủ 14 đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại một trong các điều sau: - Điều 123 (tội giết người); Điều 134 (tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác); - Điều 141 (tội hiếp dâm); Điều 142 (tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi); Điều 143 (tội cưỡng dâm); Điều 144 (tội cưỡng dâm từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi); Điều 150 (tội mua bán người); Điều 151 (tội mua bán người dưới 16 tuổi). - Điều 168 (tội cướp tài sản); Điều 169 (tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản); Điều 170 (tội cưỡng đoạt tài sản); Điều 171 (tội cướp giật tài sản); Điều 173 (tội trộm cắp tài sản); Điều 178 (tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản); - Điều 248 (tội sản xuất trái phép chất ma túy); Điều 249 (tội tàng trữ trái phép chất ma túy); Điều 250 (tội vận chuyển trái phép chất ma túy); Điều 251 (tội mua bán trái phép chất ma túy); Điều 252 (tội chiếm đoạt chất ma túy); - Điều 265 (tội tổ chức đua xe trái phép); Điều 266 (tội đua xe trái phép); - Điều 286 (tội phát tán chương trình tin học gây hại cho hoạt động của mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử); Điều 287 (tội cản trở hoặc gây rối loạn hoạt động của mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử); Điều 289 (tội xâm nhập trái phép vào mạng máy tính, mạng viễn thông hoặc phương tiện điện tử của người khác); Điều 290 (tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản); - Điều 299 (tội khủng bố); Điều 303 (tội phá hủy công trình, cơ sở, phương tiện quan trọng về an ninh quốc gia); Điều 304 (tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự). Ngoài các dấu hiệu trên, chủ thể là cá nhân của một số tội phạm đòi hỏi phải có thêm một số dấu hiệu đặc biệt khác vì chỉ khi có những dấu hiệu đó chủ thể mới có thể thực hiện hành vi phạm tội của những tội đó (gọi là chủ thể đặc biệt, ví dụ: quân nhân, người có chức vụ, quyền hạn...). * Pháp nhân thương mại lần đầu tiên được quy định trong Bộ luật hình sự 2015 là chủ thể của của tội phạm. Pháp nhân thương mại là pháp nhân có mục tiêu chính là tìm kiếm lợi nhuận và lợi nhuận được chia cho các thành viên. Pháp nhân thương mại bao gồm doanh nghiệp nhà nước và các tổ chức kinh tế khác. 70 Pháp nhân thương mại chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự khi có đủ các điều kiện sau đây: Hành vi phạm tội được thực hiện nhân danh pháp nhân thương mại; Hành vi phạm tội được thực hiện vì lợi ích của pháp nhân thương mại; Hành vi phạm tội được thực hiện có sự chỉ đạo, điều hành hoặc chấp thuận của pháp nhân thương mại và chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 27 của Bộ luật Hình sự 2015 (Khoản 1 điều 75). Pháp nhân thương mại phạm tội không phải chịu trách nhiệm hình sự với mọi tội phạm quy định tại Bộ luật hình sự mà chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự với 33 loại tội phạm quy định tại các điều 188, 189, 190, 191, 192, 193, 194, 195, 196, 200, 203,n 209, 210, 211, 213, 216, 217, 225, 226, 227, 232, 234, 235, 237, 238, 239, 242, 245, 246, 300, 324 (Điều 76 của Bộ luật hình sự năm 2015). Cụ thể như sau: - Điều 188 (tội buôn lậu); Điều 189 (tội vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới); Điều 190 (tội sản xuất, buôn bán hàng cấm); Điều 191 (tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm); Điều 192 (tội sản xuất, buôn bán hàng giả); Điều 193 (tội sản xuất, buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, phụ gia thực phẩm); Điều 194 (tội sản xuất, buôn bán hàng giả là thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh); Điều 195 (tội sản xuất, buôn bán hàng giả là thức ăn dùng để chăn nuôi, phân bón, thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật, giống cây trồng, vật nuôi); Điều 196 (tội đầu cơ); Điều 200 (tội trốn thuế); Điều 203 (tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ); Điều 209 (tội cố ý công bố thông tin sai lệch hoặc che giấu thông tin trong hoạt động chứng khoán); Điều 210 (tội sử dụng thông tin nội bộ để mua bán chứng khoán); Điều 211 (tội thao túng thị trường chứng khoán); Điều 213 (tội gian lận trong kinh doanh bảo hiểm); Điều 216 (tội trốn đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động); Điều 217 (tội vi phạm quy định về cạnh tranh); Điều 225 (tội xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan); Điều 226 (tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp); Điều 227 (tội vi phạm các quy định về nghiên cứu, thăm dò, khai thác tài nguyên); Điều 232 (tội vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng); Điều 234 (Tội vi phạm quy định về quản lý, bảo vệ động vật hoang dã); - Điều 235 (tội gây ô nhiễm môi trường); Điều 237 (tội vi phạm phòng ngừa, ứng phó, khắc phục sự cố môi trường); Điều 238 (tội vi phạm quy định về bảo vệ an toàn công trình thủy lợi, đê điều và phòng, chống thiên tai; vi phạm quy định về bảo vệ bờ, bãi sông); Điều 239 (tội đưa chất thải vào lãnh thổ Việt Nam); Điều 242 (tội huỷ hoại nguồn lợi thuỷ sản); Điều 243 (tội huỷ hoại rừng); Điều 244 (tội vi phạm quy định về quản lý, bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm); Điều 245 (tội vi phạm các quy định về quản lý khu bảo tồn thiên nhiên); Điều 246 (tội nhập khẩu, phát tán các loài ngoại lai xâm hại). Lưu ý: trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại phạm tội là trách nhiệm riêng đối với cả pháp nhân, tồn tại độc lập với trách nhiệm hình sự của từng cá nhân trong pháp nhân thương mại thực hiện. 71 - Khách thể của tội phạm: Là quan hệ xã hội được Luật Hình sự bảo vệ và bị tội phạm gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại ở mức độ đáng kể. Theo Luật Hình sự Việt Nam, những quan hệ xã hội được coi là khách thể bảo vệ của Luật Hình sự là những quan hệ xã hội đã được xác định trong Điều 8 của Bộ luật Hình sự (độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, chế độ chính trị, kinh tế, tính mạng, sức khỏe, tài sản của nhà nước và công dân...). 6.2.4. Phân loại tội phạm (Điều 9 Bộ luật hình sự 2015) Căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi được quy định trong Bộ luật này, tội phạm được phân thành tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Tội phạm ít nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội không lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với tội ấy là phạt tiền, phạt cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù đến 03 năm; Tội phạm nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với tội ấy là từ trên 03 năm đến 07 năm tù; Tội phạm rất nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội rất lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với tội ấy là từ trên 07 năm đến 15 năm tù; Tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội đặc biệt lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với tội ấy là từ trên 15 năm đến 20 năm tù, tù chung thân hoặc tử hình. 6.2.5. Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự (Điều 27 Bộ luật hình sự 2015) Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự là thời hạn do Bộ luật này quy định mà khi hết thời hạn đó thì người phạm tội không bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự được quy định như sau: - 05 năm đối với tội phạm ít nghiêm trọng; - 10 năm đối với tội phạm nghiêm trọng; - 15 năm đối với tội phạm rất nghiêm trọng; - 20 năm đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Tính từ ngày tội phạm được thực hiện; nếu trong thời hạn này mà người phạm tội lại phạm tội mới mà Bộ luật Hình sự quy định mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy trên 1 năm tù, thì thời hạn nói trên không được tính và thời hiệu đối với tội cũ tính lại kể từ ngày phạm tội mới. Nếu trong thời hạn nói trên, người phạm tội cố tình trốn tránh và có lệnh truy nã, thì thời gian trốn tránh không được tính và thời hiệu tính lại kể từ khi người đó ra tự thú hoặc bị bắt. 74 * Các hình phạt đối với pháp nhân thương mại phạm tội (Điều 33 Bộ luật hình sự 2015) bao gồm: - Hình phạt chính (3 hình phạt chính): + Phạt tiền + Đình chỉ hoạt động có thời hạn; + Đình chỉ hoạt động vĩnh viễn. - Hình phạt bổ sung (3 hình phạt bổ sung): + Cấm kinh doanh, cấm hoạt động trong một số lĩnh vực nhất định; + Cấm huy động vốn; + Phạt tiền, khi không áp dụng là hình phạt chính. 6.3.1.3. Nguyên tắc áp dụng hình phạt Đối với mỗi tội phạm, người phạm tội chỉ bị áp dụng một hình phạt chính và có thể bị áp dụng một hoặc một số hình phạt bổ sung (Khoản 3 Điều 32 Bộ luật hình sự 2015). Đối với mỗi tội phạm, pháp nhân thương mại phạm tội chỉ bị áp dụng một hình phạt chính và có thể bị áp dụng một hoặc một số hình phạt bổ sung (Khoản 2 Điều 33 Bộ luật hình sự 2015). 6.3.2. Các biện pháp tư pháp Các biện pháp tư pháp, xét về bản chất pháp lý, không phải là hình phạt, nhưng là những biện pháp tư pháp hình sự được Bộ luật Hình sự quy định để có thể áp dụng đối với những người có hành vi phạm tội, pháp nhân thương mại phạm tội. Sự cần thiết của các biện pháp tư pháp hình sự thể hiện ở chỗ: khi được áp dụng chúng có khả năng tác động hỗ trợ hình phạt đối với người phạm tội, pháp nhân thương mại phạm tội hoặc trong nhiều trường hợp chúng có thể thay thế hình phạt, giúp cho không để sót việc xử lý người phạm tội, pháp nhân thương mại phạm tội. Quy định và áp dụng các biện pháp tư pháp trong Luật Hình sự Việt Nam chính là nhằm mục đích xử công minh mọi hành vi phạm tội, để giáo dục, cải tạo người phạm tội, pháp nhân thương mại phạm tội và phòng ngừa tội phạm. Các biện pháp tư pháp dược quy định tại điều 46 Bộ luật hình sự 2015: “Điều 46. Các biện pháp tư pháp 1. Biện pháp tư pháp đối với người phạm tội bao gồm: a) Tịch thu vật, tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm; b) Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại; buộc công khai xin lỗi; c) Bắt buộc chữa bệnh. 2. Biện pháp tư pháp đối với pháp nhân thương mại phạm tội bao gồm: a) Tịch thu vật, tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm; b) Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại; buộc công khai xin lỗi; 75 c) Khôi phục lại tình trạng ban đầu; d) Thực hiện một số biện pháp nhằm khắc phục, ngăn chặn hậu quả tiếp tục xảy ra.” 6.4. Các chế định khác của Luật Hình sự 6.4.1. Phòng vệ chính đáng (Điều 22 Bộ luật hình sự 2015) Phòng vệ chính đáng là hành vi của con người vì bảo vệ lợi ích của nhà nước, của tổ chức, bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng của mình hoặc của người khác mà chống trả một cách cần thiết người đang có hành vi xâm phạm các lợi ích nói trên. Phòng vệ chính đáng không phải là tội phạm. Vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng là hành vi chống trả rõ ràng quá mức cần thiết, không phù hợp với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi xâm hại. Người có hành vi vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng phải chịu trách nhiệm hình sự. 6.4.2. Tình thế cấp thiết (Điều 23 Bộ luật hình sự 2015) Tình thế cấp thiết là tình thế của một người vì muốn tránh nguy cơ đang thực tế đe dọa lợi ích của nhà nước, của tổ chức, quyền và lợi ích chính đáng của mình hoặc của người khác mà không còn cách nào khác là gây một thiệt hại nhỏ hơn thiệt hại cần ngăn ngừa. Hành vi gây thiệt hại trong tình thế cấp thiết không phải là tội phạm. Trong trường hợp thiệt hại gây ra rõ ràng là vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết, thì người gây thiệt hại đó phải chịu trách nhiệm hình sự. 6.4.3. Chuẩn bị phạm tội (Điều 14 Bộ luật hình sự 2015) Chuẩn bị phạm tội là giai đoạn liền trước của giai đoạn phạm tội, trong giai đoạn này đối tượng phạm tội tạo ra các điều kiện để thực hiện việc phạm tội như tìm kiếm, sửa soạn công cụ, phương tiện hoặc tạo ra những điều kiện cần thiết khác để thực hiện tội phạm hoặc thành lập, tham gia nhóm tội phạm.... Chính sách hình sự của nhà nước về chuẩn bị phạm tội quy định tại Điều 14 Bộ luật hình sự 2015: “Điều 14: Chuẩn bị phạm tội 1. Chuẩn bị phạm tội là tìm kiếm, sửa soạn công cụ, phương tiện hoặc tạo ra những điều kiện khác để thực hiện tội phạm hoặc thành lập, tham gia nhóm tội phạm trừ trường hợp quy định tại Điều 109, điểm a khoản 2 Điều 113 hoặc điểm a khoản 2 Điều 299 của Bộ luật này. 2. Người chuẩn bị phạm một trong các tội sau đây thì phải chịu trách nhiệm hình sự: a) Điều 108 (tội phản bội Tổ quốc); Điều 110 (tội gián điệp); Điều 111 (tội xâm phạm an ninh lãnh thổ); Điều 112 (tội bạo loạn); Điều 113 (tội khủng bố nhằm chống chính quyền nhân dân); Điều 114 (tội phá hoại cơ sở vật chất - kỹ thuật của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam); Điều 117 (tội làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm nhằm chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt 76 Nam); Điều 118 (tội phá rối an ninh); Điều 119 (tội chống phá cơ sở giam giữ); Điều 120 (tội tổ chức, cưỡng ép, xúi giục người khác trốn đi nước ngoài hoặc trốn ở lại nước ngoài nhằm chống chính quyền nhân dân); Điều 121 (tội trốn đi nước ngoài hoặc trốn ở lại nước ngoài nhằm chống chính quyền nhân dân); b) Điều 123 (tội giết người); Điều 134 (tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác); c) Điều 168 (tội cướp tài sản); Điều 169 (tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản); d) Điều 299 (tội khủng bố); Điều 300 (tội tài trợ khủng bố); Điều 301 (tội bắt cóc con tin); Điều 302 (tội cướp biển); Điều 303 (tội phá hủy công trình, cơ sở, phương tiện quan trọng về an ninh quốc gia); Điều 324 (tội rửa tiền). 3. Người từ đủ 14 đến dưới 16 tuổi chuẩn bị phạm tội quy định tại điểm b và điểm c khoản 2 Điều này thì phải chịu trách nhiệm hình sự.” Như vậy, chuẩn bị phạm tội là tìm kiếm, sửa soạn công cụ, phương tiện hoặc tạo ra những điều kiện khác để thực hiện tội phạm hoặc thành lập, tham gia nhóm tội phạm trừ trường hợp người có hành vi thành lập hoặc tham gia tổ chức nhằm lật đổ chính quyền nhân dân quy định tại Điều 109; thành lập, tham gia tổ chức khủng bố, tổ chức tài trợ khủng bố quy định tại điểm a khoản 2 Điều 113 hoặc có hành vi thành lập, tham gia tổ chức khủng bố, tổ chức tài trợ khủng bố quy định tại điểm a khoản 2 Điều 299 Bộ luật hình sự 2015. Người từ đủ 14 đến dưới 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự khi có hành vi chuẩn bị phạm tội giết người; tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe của người khác; tội cướp tài sản; tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản của người khác. 6.4.4. Phạm tội chưa đạt (Điều 15 Bộ luật hình sự 2015) Phạm tội chưa đạt là cố ý thực hiện tội phạm nhưng không thực hiện đến cùng vì những nguyên nhân ngoài ý muốn của người phạm tội. Người phạm tội chưa đạt phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm chưa đạt. 6.4.5. Tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội (Điều 16 Bộ luật hình sự 2015) Tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội là tự mình không thực hiện tội phạm đến cùng, tuy không có gì ngăn cản. Người phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự về tội định phạm; nếu hành vi thực tế đã thực hiện có đủ dấu hiệu cấu thành một tội khác, thì người đó phải chịu trách nhiệm hình sự về tội này. CÂU HỎI ÔN TẬP, THẢO LUẬN, BÀI TẬP 1. Phân tích dấu hiệu của tội phạm? Dấu hiệu nào quan trọng nhất? 2. Phân biệt tội phạm và vi phạm pháp luật hành chính? Cho ví dụ? 3. Trình bày quy định về tuổi chịu trách nhiệm hình sự trong Bộ luật hình sự 2015? 79 - Quan hệ tài sản: Quan hệ tài sản là quan hệ giữa người với người thông qua một tài sản. Quan hệ tài sản bao giờ cũng gắn liền với một tài sản nhất định thể hiện ở dạng này hay dạng khác. Tài sản được khái quát chung ở Điều 105 Bộ luật Dân sự, bao gồm: vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản. Tài sản bao gồm bất động sản và động sản. Bất động sản và động sản có thể là tài sản hiện có và tài sản hình thành trong tương lai. - Quan hệ nhân thân: Quan hệ nhân thân là quan hệ giữa người với người thông qua giá trị nhân thân của cá nhân hay tổ chức. Việc xác đinh một giá trị nhân thân là quyền nhân thân được xác định như một quyền tuyệt đối của một cá nhân, tổ chức. Quyền nhân thân là quyền dân sự gắn liền với một chủ thể, về nguyên tắc không thể dịch chuyển cho người khác. Đó là quyền dân sự tuyệt đối, mọi người đều có nghĩa vụ tôn trọng các quyền nhân thân của người khác. Luật Dân sự điều chỉnh các quan hệ nhân thân bằng cách quy định những giá trị nhân thân nào là quyền nhân thân, trình tự thực hiện, giới hạn của các quyền nhân thân đó, đồng thời quy định các biện pháp thực hiện bảo vệ các quyền nhân thân. Các quan hệ nhân thân xuất phát từ quyền nhân thân do Luật Dân sự điều chỉnh có thể chia làm hai nhóm: - Quan hệ nhân thân gắn liền với tài sản: là quan hệ nhân thân giữa người với người thông qua một quyền nhân thân gắn liền đến tài sản như quyền tác giả, quyền sở hữu trí tuệ, v.v.. - Quan hệ nhân thân không liên quan đến tài sản: là quan hệ nhân thân giữa người với người thông qua một giá trị nhân thân không gắn liền với tài sản. Các quyền nhân thân không gắn liền với tài sản như danh dự, uy tín, hình ảnh, v.v.. Những quan hệ nhân thân do Luật Dân sự điều chỉnh có những đặc điểm sau: - Quan hệ nhân thân luôn luôn liên quan đến một lợi ích tinh thần gắn liền với một chủ thể nhất định và thông thường không thể chuyển dịch được cho các chủ thể khác. - Quan hệ nhân thân không xác định được bằng tiền. Giá trị nhân thân và tiền tệ không phải những đại lượng tương đương và không thể trao đổi ngang giá. Luật Dân sự ghi nhận những giá trị nhân thân được coi là quyền nhân thân và quy định các biện pháp bảo vệ các giá trị nhân thân khác nhau và quy định các biện pháp bảo vệ giá trị nhân thân đó khi các giá trị đó bị xâm phạm. 7.1.3. Phương pháp điều chỉnh của Luật dân sự Quan hệ pháp luật dân sự thông thường là quan hệ giữa cá nhân, tổ chức trong quá trình trao đổi các lợi ích nhằm thỏa mãn các nhu cầu cá nhân. Các chủ thể trong quan hệ pháp luật dân sự thông thường không mang tính quyền lực nhà nước, cho nên khi tham gia vào quan hệ pháp luật dân sự địa vị của các bên là tương đương nhau, các bên đều bình đẳng trước nhà nước và pháp luật. Phương pháp bình đẳng, thỏa thuận là phương pháp đặc trưng của ngành luật dân sự. Trong quan hệ pháp luật dân sự, sự thỏa thuận của 80 các bên được nhà nước ưu tiên, nhà nước tạo điều kiện để các chủ thể phát huy tính bình đẳng và sự thỏa thuận trong các giao kết dân sự, tuy nhiên sự thỏa thuận phải phù hợp với quy định của pháp luật và đạo đức xã hội của nhà nước. 7.2. Quan hệ pháp luật dân sự 7.2.1. Khái niệm và đặc điểm Quan hệ pháp luật dân sự là hình thức pháp lý của những quan hệ tài sản và quan hệ nhân thân xuất hiện trên cơ sở pháp luật dân sự. Các quyền và nghĩa vụ pháp lý chỉ xuất hiện khi có những sự kiện pháp lý cụ thể và những chủ thể nhất định mà quy phạm pháp luật dân sự đã trù liệu. Ngoài ra những đặc điểm của hệ pháp luật nói chung, quan hệ pháp luật dân sự có một số đặc điểm riêng: Thứ nhất, chủ thể tham gia độc lập về tổ chức và tài sản, tự định đoạt và không trái pháp luật. Thứ hai, quan hệ pháp luật dân sự là quan hệ bình đẳng giữa các chủ thể tham gia vào quan hệ pháp luật đó. Thứ ba, được đảm bảo và duy trì bằng sự cưỡng chế của nhà nước, biện pháp cưỡng chế đa dạng bằng pháp luật, tự yêu cầu tòa án hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền buộc bên kia phải thực hiện. 7.2.3. Thành phần của quan hệ pháp luật dân sự Thành phần của quan hệ pháp luật dân sự gồm ba bộ phận: chủ thể, nội dung và khách thể. a. Chủ thể Chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự là những người tham gia vào quan hệ pháp luật dân sự mang quyền và nghĩa vụ trong quan hệ đó. Chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự bao gồm cá nhân và pháp nhân. - Cá nhân: là chủ thể phổ biến của quan hệ pháp luật dân sự, bao gồm: công dân Việt Nam, người nước ngoài, người không quốc tịch sinh sống tại Việt Nam. Để trở thành chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự chủ thể cá nhân phải có đủ năng lực pháp luật và năng lực hành vi. Cá nhân phải có năng lực pháp luật dân sự, nghĩa là phải có các quyền dân sự và nghĩa vụ dân sự được nhà nước thừa nhận, có khả năng trở thành người tham gia vào quan hệ pháp luật dân sự. Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân xuất hiện từ khi cá nhân sinh ra cho đến khi chết đi. Ngoài ra cá nhân còn phải có năng lực hành vi là khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của mình. Theo quy định của pháp luật, hiện năng lực hành vi dân sự của được chia làm năm nhóm: + Người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ là người từ đủ 18 tuổi trở lên; 81 + Người có năng lực hành vi dân sự chưa đầy đủ là người từ đủ sáu tuổi đến dưới mười lăm tuổi, khi xác lập, thực hiện giao dịch dân sự phải được người đại diện theo pháp luật đồng ý, trừ giao dịch dân sự phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày phù hợp với lứa tuổi. Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi tự mình xác lập, thực hiện giao dịch dân sự, trừ giao dịch dân sự liên quan đến bất động sản, động sản phải đăng ký và giao dịch dân sự khác theo quy định của luật phải được người đại diện theo pháp luật đồng ý. + Người mất năng lực hành vi dân sự là người do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi thì theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan, Tòa án ra quyết định tuyên bố người này là người mất năng lực hành vi dân sự trên cơ sở kết luận giám định pháp y tâm thần. + Người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi là người thành niên do tình trạng thể chất hoặc tinh thần mà không đủ khả năng nhận thức, làm chủ hành vi nhưng chưa đến mức mất năng lực hành vi dân sự thì theo yêu cầu của người này, người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan, trên cơ sở kết luận giám định pháp y tâm thần, Tòa án ra quyết định tuyên bố người này là người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi và chỉ định người giám hộ, xác định quyền, nghĩa vụ của người giám hộ. + Người hạn chế năng lực hành vi dân sự là người nghiện ma túy, nghiện các chất kích thích khác dẫn đến phá tán tài sản của gia đình thì theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan, Tòa án có thể ra quyết định tuyên bố người này là người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự. - Pháp nhân: là một tổ chức thống nhất, độc lập, hợp pháp có tài sản riêng và chịu trách nhiệm bằng tài sản của mình, nhân danh mình tham gia vào các quan hệ pháp luật một cách độc lập. Như vậy, khái niệm chỉ những tổ chức tham gia vào các quan hệ pháp luật dân sự với tư cách độc lập riêng biệt. Một tổ chức được coi là có tư cách pháp nhân khi có đủ các điều kiện sau đây (Điều 74 Bộ luật Dân sự 2015): + Được thành lập một cách hợp pháp; + Có cơ cấu tổ chức chặt chẽ; + Có tài sản độc lập với cá nhân, pháp nhân khác và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản của mình; + Nhân danh mình tham gia vào các quan hệ pháp luật một cách độc lập. - Ngoài ra, chủ thể trong quan hệ dân sự còn có sự tham gia của hộ gia đình, tổ hợp tác và tổ chức khác không có tư cách pháp nhân. + Hộ gia đình: là các thành viên có tài sản chung để hoạt động kinh tế chung trong quan hệ sử dụng đất, trong các hoạt động sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp và trong một số lĩnh vực kinh doanh khác do pháp luật quy định. 84 Chiếm hữu tài sản trong các trường hợp dưới đây thì được coi là chiếm hữu hợp pháp (Điều 165 BLDS): - Chủ sở hữu chiếm hữu tài sản thuộc sở hữu của mình. - Người được chủ sở hữu ủy quyền quản lý tài sản. - Người được chuyển giao quyền chiếm hữu thông qua một giao dịch dân sự hợp pháp phù hợp với ý chí của chủ sở hữu và pháp luật. - Người phát hiện tài sản vô chủ, tài sản bị đánh rơi, bị bỏ quên, bị chôn giấu, bị chìm đắm hoặc thất lạc phù hợp với quy định của pháp luật. - Ngoài ra còn một số trường hợp khác như chiếm hữu trên cơ sở mệnh lệnh của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, v.v.. * Chiếm hữu không có căn cứ pháp luật (chiếm hữu bất hợp pháp) Đây là việc chiếm hữu tài sản mà không dựa trên những cơ sở do pháp luật quy định. Cụ thể là việc người không phải là chủ sở hữu chiếm hữu không theo các căn cứ được pháp luật quy định tại các quy định nói trên. Việc chiếm hữu không có căn cứ pháp luật được chia làm hai loại: - Chiếm hữu ngay tình: là trường hợp người chiếm hữu không có căn cứ pháp luật theo quy định tại Điều 189 Bộ luật Dân sự nhưng không biết và không thể biết việc mình chiếm hữu tài sản là không có căn cứ pháp luật. Nói cách khác, trong trường hợp này không buộc người chiếm hữu phải biết tính bất hợp pháp trong hành vi chiếm hữu của mình. Ví dụ: được tặng cho tài sản nhưng nhưng không thể biết nguồn gốc xuất xứ của tài sản là do lừa đảo mà có, mua tài sản trên mạng mà không biết người bán cướp giật tài sản để mang đi bán.... - Chiếm hữu không ngay tình: là trường hợp người chiếm hữu tài sản không có căn cứ pháp luật chiếm hữu do một hành vi vi phạm pháp luật như trộm cắp, lừa đảo hoặc chiếm hữu tài sản bất hợp pháp nhưng có thể biết và cần phải biết việc mình chiếm hữu tài sản là bất hợp pháp như biết nguồn gốc tài sản là trộm cắp nhưng vẫn cố tình mua hoặc mua bán, trao đổi tài sản có đăng ký quyền sở hữu mà không có giấy tờ pháp lý…. Như vậy, có thể hiểu cả chủ sở hữu và những người chiếm hữu hợp pháp đều có quyền chiếm hữu hợp pháp với tài sản. Về nguyên tắc, pháp luật bảo vệ quyền chiếm hữu hợp pháp, tuy nhiên trong một số trường hợp pháp luật cũng có những quy định bảo vệ quyền cho người chiếm hữu bất hợp pháp nhưng ngay tình. b. Quyền sử dụng Quyền sử dụng là quyền khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản (Điều 189 BLDS). Như vậy quyền sử dụng là quyền khai thác công dụng và khai thác những lợi ích vật chất của tài sản trong phạm vi pháp luật cho phép. Nguyên tắc chung là việc khai thác những giá trị sử dụng của tài sản nhằm để thỏa mãn những nhu cầu về sinh hoạt vật chất 85 hoặc tinh thần cho bản thân mình. Thực hiện quyền sử dụng còn dựa vào tính năng của vật mà con người khai thác lợi ích vật chất của chúng để thỏa mãn các nhu cầu trong sản xuất, kinh doanh. Quyền khai thác công dụng của tài sản là việc khai thác lợi ích từ tài sản theo công dụng của tài sản (xe máy được dùng để đi, nhà dùng để ở…), hưởng hoa lợi từ tài sản là hưởng những sản vật tự nhiên do vật mang lại như hưởng hoa quả từ cây cối mang lại, hưởng trứng do gia cầm đẻ ra…, hưởng lợi tức là hưởng lợi ích từ tài sản khi tài sản khi tài sản được đưa vào khai thác như hưởng tiền thuê nhà, tiền lãi từ số tiền gửi vào ngân hàng… Việc sử dụng tài sản là một trong những quyền năng quan trọng và có ý nghĩa thực tế của chủ sở hữu. Quyền sử dụng tài sản có thể được chủ sở hữu trực tiếp thực hiện nhưng cũng có thể được thực hiện thông qua người khác. - Thứ nhất, đối với chủ sở hữu: chủ sở hữu có toàn quyền trong việc sử dụng tài sản phù hợp với tính năng, công dụng của tài sản. Tuy nhiên khi sử dụng tài sản thì chủ sở hữu không được gây thiệt hại hoặc làm ảnh hưởng đến lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền, lợi ích hợp pháp của người khác. - Thứ hai, người không phải là chủ sở hữu được sử dụng tài sản theo thoả thuận với chủ sở hữu thông qua hợp đồng thuê, hợp đồng mượn hoặc những trường hợp khác… Ngoài việc sử dụng tài sản theo ý chí của chủ sở hữu, người sử dụng phải tuân theo các quy định của pháp luật trong quá trình sử dụng tài sản. - Thứ ba, người không phải là chủ sở hữu được sử dụng tài sản theo quy định của pháp luật. Đây là những trường hợp mà pháp luật cho phép một chủ thể nhất định có quyền sử dụng tài sản. Ví dụ: khoản 1 Điều 59 BLDS cho phép người giám hộ có quyền sử dụng tài sản của người được giám hộ để chăm sóc, chi dùng cho những nhu cầu cần thiết của người được giám hộ. - Thứ tư, người chiếm hữu không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình thì cũng có quyền khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản theo quy định của pháp luật. Bản thân người chiếm hữu không có căn cứ pháp luật ngay tình không có lỗi với việc chiếm hữu, do đó họ có quyền sử dụng tài sản để hưởng hoa lợi, lợi tức hoặc khai thác công dụng trực tiếp từ tài sản mà mình chiếm hữu. Trong một số trường hợp khác mà pháp luật quy định, cơ quan hoặc tố chức cũng có quyền sử dụng tài sản trên cơ sở một văn bản của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Ví dụ: Cơ quan, tố chức sử dụng tài sản bị trưng dụng. c. Quyền định đoạt Quyền định đoạt là quyền chuyển giao quyền sở hữu tài sản, từ bỏ quyền sở hữu, tiêu dùng hoặc tiêu hủy tài sản (Điều 195 BLDS) Chủ sở hữu là người duy nhất có quyền định đoạt số phận của tài sản. Người không phải là chủ sở hữu kể cả người chiếm hữu hợp pháp cũng không có quyền định 86 đoạt. Trong một số trường hợp chủ sở hữu có quyền ủy quyền cho người khác định đoạt tài sản, trong trường hợp này, trên cơ sở việc ủy quyền người không phải chủ sở hữu cũng có quyền định đoạt nhưng về mặt bản chất vẫn là việc định đoạt trên cơ sở ý chí của chủ sở hữu. Chủ sở hữu định đoạt tài sản thuộc sở hữu của mình biểu hiện ở hai phương diện: - Định đoạt số phận thực tế của tài sản được hiểu là chủ sở hữu tự bằng hành vi của mình để quyết định về số phận của tài sản như: từ bỏ quyền sở hữu, tiêu dùng, tiêu hủy bằng đập phá, đốt, xé… - Định đoạt số phận pháp lý của tài sản là chuyển giao quyền sở hữu tài sản từ người này sang người khác. Thông thường định đoạt số phận pháp lý của tài sản phải được thực hiện thông qua các giao dịch mang tính chất pháp lý phù hợp với ý chí của các chủ thể và pháp luật như tặng, cho, mua bán, trao đổi, thừa kế, v.v.. Việc định đoạt tài sản sẽ làm chấm dứt quyền sở hữu của chủ sở hữu đối với tài sản hoặc làm thay đổi các quan hệ pháp luật liên quan đến tài sản đó. Việc định đoạt tài sản phải tuân theo các quy định của pháp luật. Trong một số trường hợp, mặc dù chủ sở hữu không thể hiện ý chí muốn định đoạt tài sản nhưng theo quy định của pháp luật vẫn bắt buộc phải định đoạt, ví dụ trường hợp nhà nước tổ chức bán đấu giá tài sản để thi hành bản án, v.v.. hoặc ngược lại trong một số trường hợp quyền định đoạt bị hạn chế ví dụ như tiền, di tích lịch sử, v.v.. Việc bắt buộc chủ sở hữu định đoạt hoặc hạn chế quyền định đoạt của chủ sở hữu nhằm mục đích bảo vệ lợi ích hợp pháp của nhà nước cũng như các chủ thể khác có quyền và lợi ích liên quan. Cả ba quyền năng cụ thể tạo thành một thể thống nhất trong nội dung của quyền sở hữu, chúng có mối liên hệ thống nhất với nhau nhưng mỗi quyền năng lại có một ý nghĩa khác nhau. Cụ thể quyền chiếm hữu là tiền đề quan trọng cho hai quyền kia nhưng quyền sử dụng lại có ý nghĩa thiết thực, vì chỉ thông qua quyền năng này chủ sở hữu mới được hưởng lợi ích từ tài sản, khai thác các tính năng, công dụng của tài sản để thỏa mãn các nhu cầu cá nhân, trong khi đó quyền định đoạt lại xác định ý nghĩa pháp lý quan trọng nhất của quyền sở hữu. 7.3.2. Quyền thừa kế 7.3.2.1. Khái niệm Thừa kế là quan hệ xã hội về việc chuyển giao di sản của người chết cho những người còn sống. Quan hệ thừa kế và quan hệ sở hữu có quan hệ chặt chẽ với nhau. Sở hữu là yếu tố đầu tiên làm xuất hiện quan hệ thừa kế và thừa kế là phương tiện để duy trì và củng cố chế độ sở hữu. Theo quy định tại Bộ luật Dân sự, thừa kế là việc chuyển dịch tài sản của người đã chết cho người còn sống; tài sản để lại được gọi là di sản và như vậy có thể hiểu quyền thừa kế là một chế định của Luật dân sự, là tổng hợp quy phạm pháp luật điều chỉnh việc dịch chuyển tài sản của người chết cho người khác. Pháp luật về thừa kế được xây dựng và thực hiện dựa trên nguyên tắc sau: 89 Di chúc cũng không có hiệu lực pháp luật nếu di sản để lại cho người thừa kế không còn vào thời điểm mở thừa kế. Nếu di sản để lại cho người thừa kế chỉ còn lại một phần thì phần di chúc về di sản còn lại vẫn có hiệu lực. Người lập di chúc là người mà thông qua việc lập di chúc để định đoạt tài sản của mình cho người khác sau khi mình chết với ý chí hoàn toàn tự nguyện, thể hiện mong muốn chủ quan của họ. Người lập di chúc phải đạt những độ tuổi nhất định với độ tuổi về khả năng làm chủ hành vi thì di chúc mới có hiệu lực pháp luật. Người lập di chúc chỉ có thể là công dân và phải có tài sản thuộc quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng hợp pháp của mình. - Người lập di chúc Theo quy định của pháp luật hiện hành, người thành niên có quyền lập di chúc, trừ trường hợp người đó bị bệnh tâm thần hoặc các bệnh khác mà không thể nhận thức và làm chủ được hành vi của mình. Người từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi được lập di chúc, nếu được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý về việc lập di chúc. Di chúc của người bị hạn chế về thể chất hoặc người không biết chữ do người làm chứng lập thành văn bản. - Quyền của người lập di chúc + Chỉ định người thừa kế; truất quyền hưởng di sản của người thừa kế; + Phân định phần di sản cho từng người thừa kế; + Dành một phần tài sản trong khối di sản để di tặng, thờ cúng; + Giao nghĩa vụ cho người thừa kế; + Chỉ định người giữ di chúc, người quản lý di sản, người phân chia di sản. chỉ định người thừa kế, truất quyền hưởng di sản của người hưởng thừa kế; phân định tài sản cho từng người thừa kế; dành một phần tài sản trong khối tài sản để tặng, thờ cúng; giao nghĩa vụ cho người thừa kế trong phạm vi di sản; chỉ định người giữ di chúc, người quản lý di sản, người phân chia di sản. - Hình thức của di chúc Di chúc phải được lập thành văn bản; nếu không lập được di chúc thành văn bản thì có thể di chúc bằng miệng. Di chúc bằng văn bản bao gồm: di chúc bằng văn bản không có người làm chứng; di chúc bằng văn bản có người làm chứng; di chúc bằng văn bản có chứng thực của ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn; di chúc bằng văn bản có chứng nhận của công chứng nhà nước. Trường hợp người lập di chúc không viết tay bản di chúc thì có thể tự mình đánh máy hoặc nhờ người khác viết hoặc đánh máy bản di chúc, nhưng phải có ít nhất là 02 người làm chứng. Người lập di chúc phải ký hoặc điểm chỉ vào bản di chúc trước mặt những người làm chứng; những người làm chứng xác nhận chữ ký, điểm chỉ của người lập di chúc và ký vào bản di chúc; việc lập di chúc bằng văn bản có người làm chứng 90 phải tuân theo quy định về nội dung di chúc và người làm chứng cho việc lập di chúc (Điều 634 Bộ luật dân sự 2015). Trường hợp di chúc có sự tẩy xóa, sửa chữa thì người tự viết di chúc hoặc người làm chứng di chúc phải ký tên bên cạnh chỗ tẩy xoá, sửa chữa (Điều 631 Bộ luật dân sự 2015). Di chúc miệng được áp dụng trong trường hợp khi tính mạng một người bị cái chết đe dọa do bệnh tật hoặc các nguyên nhân khác mà không thể lập di chúc bằng văn bản. Di chúc miệng được coi là hợp pháp nếu người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng của mình trước mặt ít nhất hai người làm chứng và ngay sau đó người làm chứng ghi chép lại và cùng ký tên hoặc điểm chỉ. Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng thì di chúc phải được công chứng viên hoặc cơ quan có thẩm quyền chứng thực xác nhận chữ ký hoặc điểm chỉ của người làm chứng. Sau ba tháng, kể từ thời điểm lập di chúc miệng mà người lập di chúc còn sống, minh mẫn, sáng suốt thì di chúc miệng bị hủy bỏ. - Nguyên tắc chia thừa kế theo di chúc: Hình thức chia thừa kế theo di chúc về bản chất dựa trên cơ sở ý chí của người để lại di sản. Xuất phát từ quyền sở hữu là một quyền cơ bản của con người, chủ sở hữu có quyền định đoạt cao nhất đối với tài sản của mình, việc chia thừa kế theo di chúc phải đảm bảo ý chí của người lập di chúc. Người được người lập di chúc chỉ định cho hưởng tài sản nào sẽ được hưởng phần tài sản đó, trừ trường hợp có người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc. b. Thừa kế theo pháp luật Thừa kế theo pháp luật là thừa kế theo hàng thừa kế, điều kiện và trình tự thừa kế do pháp luật quy định. Pháp luật quy định việc thừa kế dựa trên cơ sở diện thừa kế và hàng thừa kế. - Các trường hợp chia thừa kế theo pháp luật: Thừa kế theo pháp luật được áp dụng trong những trường hợp sau đây: + Không có di chúc; + Di chúc không hợp pháp; + Những người thừa kế theo di chúc đã chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc; cơ quan, tổ chức được hưởng thừa kế theo di chúc không còn vào thời điểm mở thừa kế; + Những người được chỉ định làm người thừa kế theo di chúc mà không có quyền hưởng di sản hoặc từ chối quyền hưởng di sản. Ngoài ra, thừa kế theo pháp luật còn được áp dụng đối với các phần di sản sau: + Phần di sản không được định đoạt trong di chúc; + Phần di sản có liên quan đến phần của di chúc không có hiệu lực pháp luật; 91 + Phần di sản có liên quan đến người được thừa kế theo di chúc nhưng họ không có quyền hưởng di sản, từ chối nhận di sản, chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc; liên quan đến cơ quan, tổ chức được hưởng di sản theo di chúc, nhưng không còn tồn tại vào thời điểm mở thừa kế. - Diện thừa kế: Diện thừa kế là phạm vi những người có quyền hưởng thừa kế theo quy định của pháp luật và được xác định theo quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống và quan hệ nuôi dưỡng giữa người thừa kế với người để lại di sản thừa kế. Con riêng, bố dượng, mẹ kế nếu có quan hệ chăm sóc nuôi dưỡng nhau như cha con, mẹ con thì được thừa kế di sản của nhau và còn được thừa kế di sản theo quy định tại Điều 652 và Điều 653 của Bộ luật dân sự 2015. - Hàng thừa kế: Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây (Điều 651 Bộ luật dân sự 2015): + Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết; + Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại; + Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột; chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại. - Nguyên tắc chia thừa kế theo pháp luật (Khoản 2,3 Điều 651 Bộ luật dân sự 2015) + Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau. + Những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế, nếu không còn ai ở hàng thừa kế trước do đã chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản. 7.3.2.4. Một số quy định khác về thừa kế a. Thừa kế thế vị Theo nguyên tắc chung, người thừa kế là người còn sống vào thời điểm mở thừa kế. Nhưng pháp luật thừa kế nước ta còn quy định trường hợp khi con của người để lại di sản chết trước người để lại di sản thì cháu của người đó được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ cháu được hưởng nếu còn sống. Nếu người cháu cũng chết trước người để lại di sản thì chắt là người được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ chắt được hưởng nếu còn sống. Những trường hợp đó gọi là thừa kế thế vị. Ngoài ra pháp luật cũng quy định 94 - Nếu di sản của ông A được chia thừa kế theo pháp luật thì mỗi suất thừa kế sẽ là: 300.000.000 : 5 (bà B, C, D, E, P) = 60.000.000 đồng và 2/3 một suất sẽ là: 60.000.000 đồng x 2/3 = 40.000.000 đồng. - Cũng theo di chúc, ông A không cho bà B hưởng di sản thừa kế nhưng theo quy định tại khoản 1 Điều 644 Bộ luật dân sự 2015 bà B là người thừa kế không phụ thuộc nội dung di chúc, được hưởng hai phần ba một suất thừa kế theo pháp luật, tức là bà B được hưởng: 40.000.000 đồng. - Căn cứ quy định tại khoản 1 Điều 644 Bộ luật dân sự 2015, tuy P đã được hưởng thừa kế theo di chúc của ông A 20.000.000 đồng, nhưng còn thiếu so với hai phần ba một suất thừa kế theo pháp luật là: 40.000.000 đồng – 20.000.000 đồng = 20.000.000 đồng, nên P sẽ được chia đủ hai phần ba một suất thừa kế theo pháp luật, tức là P sẽ được hưởng thêm 20.000.000 đồng. - Phần di sản bà B và P được hưởng trích ra từ di sản C, D, E được hưởng thừa kế theo di chúc của ông A, tức là: 280.000.000 đồng – (40.000.000 đồng + 20.000.000 đồng) = 220.000.000 đồng. Vậy C = D = E = 220.000.000 đồng : 3 = 73.333.333 đồng. 7.3.3. Hợp đồng 7.3.3.1. Khái niệm hợp đồng Hợp đồng là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự (Điều 385 Bộ luật dân sự 2015). Khi các bên đã giao kết hợp đồng, một trong các bên không thực hiện, thực hiện không đúng, không đầy đủ các điều khoản hợp đồng thì họ phải có trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho bên bị thiệt hại do bên có hành vi trái pháp luật gây ra. Trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng là sự cưỡng chế của Nhà nước buộc bên vi phạm hợp đồng phải thực hiện đúng hợp đồng hoặc phải bồi thường thiệt hại do hành vi không chấp hành hợp đồng, chấp hành không đúng, không đầy đủ hợp đồng mà gây thiệt hại cho bên kia. 7.3.3.2. Chủ thể của hợp đồng Cá nhân từ đủ 18 tuổi trở lên có khả năng nhận thức thực hiện quyền và nghĩa vụ hợp đồng, tự chịu trách nhiệm về việc thực hiện nghĩa vụ có quyền giao kết hợp đồng. Cá nhân bao gồm: công dân Việt Nam và người nước ngoài đang sinh sống ở Việt Nam. Người từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi có tài sản riêng đủ để thanh toán nghĩa vụ, thì được giao kết hợp đồng mà không cần phải được người đại diện theo pháp luật đồng ý, trừ những trường hợp pháp luật quy định phải đủ 18 tuổi. Người dưới 15 tuổi, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự được phép tham gia quan hệ hợp đồng, nhưng phải được sự đồng ý của bố mẹ, hoặc những người giám hộ, trừ những hợp đồng có giá trị nhỏ phục vụ nhu cầu thiết yếu hàng ngày thì không cần sự đồng ý này. 95 Pháp nhân và các chủ thể khác cũng là chủ thể của hợp đồng dân sự. Trong quan hệ hợp đồng dân sự, các chủ thể này phải thông qua những đại diện hợp pháp. 7.3.3.3. Hình thức, nội dung của hợp đồng Theo thỏa thuận của các bên, hợp đồng dân sự có thể được giao kết bằng lời nói, bằng văn bản hoặc bằng hành vi cụ thể. Nếu pháp luật có quy định hợp đồng phải được thể hiện bằng văn bản, phải được chứng nhận của công chứng nhà nước chứng thực, đăng ký hoặc xin phép thì phải tuân theo các quy định này; các bên có thỏa thuận giao kết hợp đồng theo mẫu. Nội dung chủ yếu của hợp đồng dân sự là những điều khoản mà thiếu những điều khoản đó thì hợp đồng không thể giao kết được. Những nội dung này do pháp luật quy định, nếu pháp luật không quy định thì theo thỏa thuận của các bên. Tùy theo từng loại hợp đồng, các bên có thể thỏa thuận về những nội dung sau đây: đối tượng của hợp đồng là tài sản phải giao, công việc được làm hoặc không được làm; số lượng, chất lượng; giá cả, phương thức thanh toán; thời hạn, địa điểm, phương thức thực hiện hợp đồng; quyền, nghĩa vụ của các bên; trách nhiệm do vi phạm hợp đồng, phương thức giải quyết tranh chấp (Điều 398 Bộ luật dân sự 2015). 7.3.3.4. Điều kiện có hiệu lực của hợp đồng dân sự Hợp đồng dân sự khi giao kết tuân theo đúng những quy định của pháp luật sẽ làm phát sinh quyền và nghĩa vụ giữa các bên tham gia hợp đồng. Trái lại, nếu các bên đã vi phạm thì hợp đồng đó sẽ vô hiệu, không làm phát sinh quyền và nghĩa vụ giữa các bên. Việc tuyên bố một hợp đồng vô hiệu phải do Tòa án đưa ra bằng một bản án dân sự hủy bỏ hợp đồng đã giao kết. Đối với những hợp đồng được giao kết mà vi phạm pháp luật, viện kiểm sát nhân dân có quyền khởi kiện để yêu cầu tòa án nhân dân hủy bỏ hợp đồng. Hợp đồng có thể vô hiệu toàn bộ hoặc vô hiệu từng phần khi nội dung của phần đó vô hiệu mà không ảnh hưởng đến nội dung các phần còn lại của hợp đồng. Hậu quả pháp lý của hợp đồng vô hiệu được giải quyết như quy định đối với giao dịch dân sự vô hiệu. Các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận; nếu không hoàn trả được bằng hiện vật thì phải hoàn trả bằng tiền. Bên có lỗi gây thiệt hại phải bồi thường. Tùy từng trường hợp xét theo tính chất của giao dịch vô hiệu, tài sản giao dịch và hoa lợi, lợi tức thu được có thể bị tịch thu theo quy định của pháp luật. CÂU HỎI ÔN TẬP, THẢO LUẬN, BÀI TẬP 1. Phân tích đối tượng điều chỉnh và phương pháp điều chỉnh của Luật dân sự Việt Nam? 2. Phân tích chế định quyền sở hữu? Lấy ví dụ minh họa? 3. Phân biệt hình thức thừa kế theo di chúc và thừa kế theo pháp luật? 4. Phân tích điều kiện có hiệu lực của hợp đồng? 96 5. Tình huống: Chị A dành dụm được 20 triệu đồng và đến hiệu cầm đồ mua một chiếc xe máy để đi làm. Hai bên làm hợp đồng mua bán xe có kèm theo Giấy chứng nhận đăng ký xe. Tuy nhiên, khi chị A đến cơ quan công an để làm hồ sơ đổi tên chủ sở hữu thì công an phát hiện đăng ký xe là đăng ký giả nên tạm giữ xe cùng giấy tờ để điều tra. Sau đó, công an thông báo cho chị A biết là không tìm được chủ sở hữu của chiếc xe. Vậy chị A có được trả lại xe và đổi tên để sử dụng xe máy trên không? 6. Tình huống: Ông A kết hôn với bà B sinh được 5 người con. Anh con cả đã chết để lại 2 con đã thành niên. Gia tài của ông bà là ngôi nhà trị giá 200.000.000 đồng và ông A có số tiền tiết kiệm riêng là 100.000.000 đồng. Trước khi chết ông A lập di chúc cho bà B số tiền tiết kiệm 100.000.000 đồng. Sau khi ông A chết, anh con trai út của ông bị tai nạn và bị tâm thần. Anh (chị) hãy chia thừa kế di sản của ông A? 7. Tình huống: Ông Huy và bà Thái là hai vợ chồng, có tài sản chung là 750.000.000 đồng, có hai đứa con chung là Minh (1999) và Nga (2009). Năm 2017 bà Thái chết, Minh và Nga về sống với ông bà ngoại. Năm 2018, ông Huy kết hôn với bà Yến, có con chung là Cúc (2019). Minh và Nga phản đối cuộc hôn nhân của bố nên không qua lại với ông Huy và bà Yến. Đầu năm 2020, ông Huy chết, do vẫn còn giận Minh và Nga nên ông viết di chúc để lại toàn bộ tài sản cho bà Yến và Cúc, truất quyền thừa kế của Minh và Nga. Tháng 5/2020, bà Yến bị tai nạn qua đời không kịp để lại di chúc. Biết tiền mai táng cho ông Huy hết 25.000.000 đồng, bà Yến hết 30.000.000 đồng. 1. Hãy chia thừa kế trong trường hợp trên? 2. Giả sử bà Yến từ chối nhận di sản của ông Huy thì chia thừa kế như thế nào? 8. Tình huống: Do cần tiền chơi điện tử, T (13 tuổi) đã bán chiếc xe đạp Nhật mà bố mua cho để đi học với giá 1,5 triệu đồng cho ông M (thợ sửa xe đạp ở gần nhà). Khi phát hiện con không đi xe đạp về nhà, sau nhiều lần tra hỏi, bố T mới biết việc mua bán đó. Bố T đã tìm gặp ông M đề nghị được chuộc lại chiếc xe và hoàn trả ông 1,5 triệu đồng nhưng ông M không đồng ý vì cho rằng việc mua bán giữa ông và T là hoàn toàn tự nguyện, ông không có trách nhiệm phải trả lại chiếc xe. Hai bên lời qua tiếng lại. Vậy giải quyết tình huống trên như thế nào?
Docsity logo



Copyright © 2024 Ladybird Srl - Via Leonardo da Vinci 16, 10126, Torino, Italy - VAT 10816460017 - All rights reserved